Post Top Ad

Your Ad Spot

Thứ Bảy, 17 tháng 4, 2021

GIAO LƯU VÀ HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ VĂN HÓA TRONG ĐIỀU KIỆN TOÀN CẦU HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


Mở đầu

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại, không chỉ dừng lại trong lĩnh vực kinh tế, mà còn mở rộng, lan tỏa, thâm nhập các lĩnh vực khác của đời sống, từ xã hội, môi trường đến khoa học, công nghệ, văn hóa, pháp luật, giáo dục... Chính quá trình tác động và thấm sâu của toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế vào toàn bộ các lĩnh vực của một dân tộc, một quốc gia mà nhân loại đang đứng trước nhiều vấn đề hệ trọng đối với sự đứng vững, tồn tại và phát triển của từng quốc gia, dân tộc và của từng khu vực trên thế giới trong quan hệ mang tính toàn cầu đang diễn ra cực kỳ phong phú và phức tạp hiện nay.

Toàn cầu hóa vừa là thời cơ cho sự hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời cũng là những thách thức to lớn, nhiều khi hoàn toàn mới mẻ, đối với vấn đề giữ gìn, bảo vệ, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa riêng biệt, độc đáo, có tính truyền thống của mỗi dân tộc, quốc gia trong bối cảnh và đặc điểm mới của thế giới hiện đại. Một trong những giải pháp quan trọng nhất để có thể vừa bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, vừa có thể phát triển các giá trị đó là tăng cường giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa. Trong giải pháp này, mỗi quốc gia vừa có thể tiếp thu, chọn lọc, kế thừa những giá trị văn hóa phù hợp trên thế giới để bổ sung, phát triển, làm giàu thêm nền văn hóa của dân tộc, đồng thời, đây còn là cơ hội để có thể quảng bá văn hóa của dân tộc mình đến bạn bè quốc tế.

Giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa góp phần duy trì giá trị văn hóa và bản sắc dân tộc của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài; trở thành thành tố nổi bật trong ngoại giao văn hóa và quan hệ quốc tế của Việt Nam. Hợp tác và giao lưu quốc tế về văn hoá giúp đạt các mục tiêu mà chính sách văn hoá mà Việt Nam đã đặt ra, đó là tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, làm phong phú và sâu sắc thêm những giá trị văn hoá truyền thống của đất nước. Hợp tác về văn hoá còn là nền tảng để mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực khác. Thông qua các hoạt động văn hoá đối ngoại, bạn bè thế giới hiểu biết hơn về đất nước, con người và văn hoá Việt Nam, qua đó nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế.

2. Sự phát triển lý luận của Đảng về giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa

Ngay từ khi chưa giành được chính quyền, Đảng ta vẫn luôn luôn coi trọng việc xây dựng nên văn hoá dân tộc theo phương châm khoa học, dân tộc, đại chúng và giao lưu văn hoá với quốc tế (Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943). Tư tưởng xây dựng nền văn hoá Việt Nam khoa học, dân tộc và đại chúng của Đảng ta được triển khai thực hiện ngay trong những năm hoà bình, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đặc biệt, trong khói lửa của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước, Đảng và Nhà nước ta càng coi trọng chính sách giao lưu văn hoá quốc tế. Đảng ta chủ trương tiếp thu văn hoá nước ngoài một cách có chọn lọc, phê phán. Tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Văn hoá là ảnh hưởng lẫn nhau của văn hoá Đông phương và Tây phương chung đúc lại... Đông phương hay Tây phương có gì tốt ta học lấy để tạo ra một nền văn hoá Việt Nam”[1].

Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII về một số nhiệm vụ văn hoá, văn nghệ những năm trước mắt, khẳng định: “Phát triển văn hoá dân tộc đi liền với mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài, tiếp thụ những tinh hoa của nhân loại, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam. Ngăn chặn và đấu tranh chống sự xâm nhập của các loại văn hoá độc hại, bảo vệ nền văn hoá dân tộc”[2]. Đặc biệt, trong nghị quyết này, Đảng ta còn nhấn mạnh: “Mở rộng giao lưu văn hoá với nước ngoài dưới nhiều hình thức: giới thiệu rộng rãi những giá trị văn hoá của dân tộc ta với thế giới, đưa vào nước ta những giá trị văn hoá của nhân dân các nước; mở rộng xuất nhập khẩu văn hoá phẩm; khuyến khích việc trao đổi với nước ngoài và các đoàn văn hoá, nghệ thuật... Có quy định nghiêm ngặt bảo vệ những giá trị văn hoá của dân tộc, chống thâm nhập vào nước ta những tác phẩm xấu, độc hại”[3]. Đây là sự phát triển tư duy lý luận của Đảng về mở rộng giao lưu văn hóa có tính chất bước ngoặt trong quá trình đổi mới toàn diện đất nước.

Tiếp tục tinh thần của Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII, Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII đã có những đánh giá tổng kết về những hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa, Đảng ta chỉ rõ: Giao lưu văn hóa với nước ngoài đã từng bước mở rộng, chúng ta có cơ hội tiếp xúc rộng rãi với các nền văn hóa phát triển trên thế giới, đồng thời giới thiệu những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta cho bạn bè quốc tế. Nhưng trong công tác này, nước ta vẫn còn những yếu kém cần phải khắc phục: “Giao lưu văn hóa với nước nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở. Số văn hóa phẩm độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn, trong khi đó, số tác phẩm văn hóa có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít”[4]. Đặc biệt, lần đầu tiên Đảng ta xác định “Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa” là một trong mười nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, Đảng ta nêu rõ: “Làm tốt việc giới thiệu văn hóa, đất nước và con người Việt Nam đối với thế giới; tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài; phổ biến những kinh nghiệm tốt xây dựng và phát triển văn hóa của các nước; ngăn ngừa sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa phản động, đồi trụy; giúp đỡ cộng đồng người Việt ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước nhà, thu nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, nêu cao lòng yêu nước, tự tôn dân tộc, giữ gìn truyền thống, bản sắc dân tộc, phát huy trí tuệ, tài năng sáng tạo, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước”[5].

Như vậy, cả Nghị quyết Đại hội VIIINghị Trung ương 5 khoá VIII đều khẳng định, bảo vệ bản sắc văn hóa phải đi đôi với mở rộng giao lưu quốc tế: “Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác”[6]. Tuy nhiên, Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII đã chỉ rõ hơn trong quá trình giao lưu, hội nhập phải tiếp thu, kế thừa có chọn lọc, tức là chỉ kế thừa cái hay, cái tốt đẹp và phù hợp với bản sắc văn hóa Việt Nam.

Trong bối cảnh hiện đại, cùng với giao lưu về chính trị - an ninh và giao lưu kinh tế - thương mại, giao lưu văn hoá là một trong ba trụ cột cấu thành của tổng thể chính sách đối ngoại quốc gia. Chính vì thế, trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Đảng ta đặt vấn đề: “Mở rộng giao lưu văn hóa, thông tin với thế giới”[7].

Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước của Đảng đã bổ sung, phát triển lý luận về văn hóa nói chung và vấn đề hội nhập quốc tế về văn hóa nói riêng. Nếu như các văn kiện, nghị quyết trước đây, kể cả Nghị quyết Đại hội XI, Đảng ta mới chỉ đưa ra quan điểm mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa, thì đến Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Đảng ta khẳng định phải chủ động hội nhập và tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Nghị quyết chỉ rõ, chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, Đảng ta cụ thể hóa như sau: “Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng hóa các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc”[8]. Bên cạnh đó, Đảng ta còn nhấn mạnh: “Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để gìn giữ, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế; khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa”[9].

Đại hội XII của Đảng lựa chọn, nêu khái quát định hướng các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu về phát triển văn hóa và con người Việt Nam. Nhiệm vụ thứ nhất, trực tiếp nhằm phát triển con người, tất nhiên trong quan hệ không tách rời với phát triển văn hóa. Riêng đối với phát triển văn hóa, Đảng ta khẳng định: “Cần chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc. Đồng thời, cần chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn bản sắc dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái…”[10].

3. Những vấn đề mới đặt ra cho giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa trong điều kiện toàn cầu hóa ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, giao lưu và hợp tác quốc tế là con đường duy nhất để văn hóa Việt Nam có thể dứng vững và tiếp tục phát triển. Toàn cầu hóa làm cho các nước trên thế giới “xích lại gần nhau hơn”, các nước không chỉ cạnh tranh với nhau để giành cho mình lợi thế mà còn là động lực phát triển cho nhau, cho nên, để có thể tồn tại và phát triển thì bắt buộc ta phải mở cửa hợp tác với các nước khác. Dân tộc ta có câu: “Biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng”. Vì thế, việc giao lưu, hợp tác quốc tế không nằm ngoài mục tiêu học hỏi, “học lấy cái tốt của người để vun đắp cho ta”. Đây cũng chính là con đường duy nhất, tất yếu ta phải “kinh qua” nếu không muốn bị bỏ lại phía sau. GS. Đào Duy Anh từng khẳng định: “mở cửa, hợp tác là xu thế không thể cưỡng lại được đối với bất kỳ dân tộc nào. Đó là con đường duy nhất để làm cho quốc gia, dân tộc mạnh lên...”[11]

Thứ hai, những sức ép trong quá trình phát triển kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế sâu rộng về kinh tế, quân sự, đối ngoại sẽ kéo theo những áp lực cho chính sách giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa của nước ta. Hiện nay, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trê thế giới đang chuyển biết rất phức tạp, khó nắm bắt, nó có tác động rất lớn đến chủ trương, đường lối và chính sách ngoại giao về văn hóa của các nước trên thế giới. Bên cạnh đó, việc nước này dùng sức ép về kinh tế, chính trị để hạn chế các hoạt động ngoại giao nói chung và ngoại giao về văn hóa của nước khác, hay việc các tổ chức phản động lợi dụng chính sách hội nhập về văn hóa để chống phá chế độ không phải là không có. Vì thế, chính trong sự diễn biến phức tạp, đa chiều, đa góc độ của quá trình toàn cầu hóa đòi hỏi Đảng và nhà nước ta cần có những nhận định đúng đắn, khoa học để có thể đề ra những chủ trương, đường lối và chính sách giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa đúng đắn, hiệu quả.

Thứ ba, nguy cơ từ bỏ nền tảng văn hóa truyền thống, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa. Trong quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, nền văn hóa Việt Nam có cơ hội tiếp xúc với nhiều yếu tố, giá trị văn hóa khác nhau của các quốc gia, đồng thời có sự du nhập, tác động, cải biến  mạnh mẽ giữa các yếu tố văn hóa bản địa với các giá trị văn hóa du nhập từ nước ngoài. Trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa hai giá trị văn hóa đó, nếu có giữ được lập trường tư tưởng vững vàng, lấy các giá trị truyền thống làm cơ sở, động lực để tiếp thu các giá trị văn hóa nước ngoài thì nền văn hóa sẽ được bổ sung, hoàn thiện và phát triển bền vững. Ngược lại, nếu không lấy các giá trị văn hóa truyền thống làm cơ sở, làm sức mạnh nội sinh mà quá chú trọng đến việc tiếp thu và tiếp thu một cách máy móc, gập khuôn thì sẽ dẫn đến “mất gốc”, “biến mình thành nô lệ của người khác”.

Thứ tư, hội nhập quốc tế mang lại cho nền văn hóa Việt Nam cả những thời cơ và những thách thức to lớn, nếu không tận dụng được cơ hội để phát triển thì sẽ có nguy cơ bị tụt hậu so với thế giới. Có thể thấy rất rõ tính hai mặt của toàn cầu hóa, một mặt nó đem lại những thời cơ, điều kiện phát triển cho văn hóa Việt Nam, nhưng bên cạnh đó, nó cũng đồng thời ẩn chứa những thách thức, những nguy cơ đối với sự phát triển của văn hóa nước ta. Vì vậy, vấn đề cốt lõi trong đối với việc phát triển văn hóa nói riêng và phát triển tất cả các mặt của đời sống xã hội ở Việt Nam trong điều kiện toàn cầu hóa đó chính là phải làm sao nắm bắt được thời cơ, vượt qua được thử thách để có thể phát triển bền vững.

4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và tăng cường hiệu quả giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa của nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay

Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với lĩnh vực văn hóa nói chung và hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa nói riêng. Với đường lối chỉ đạo phù hợp với quy luật, nên từ những năm đổi mới, cùng với quá trình hội nhập và giao lưu văn hóa quốc tế, nền văn hóa Việt Nam hiện nay đã trở nên phong phú, đa dạng và hiện đại hơn. Một số giá trị văn hóa truyền thống được bổ sung, điều chỉnh cho phù hợp hơn với thời đại và với sự phát triển đang vươn lên hiện đại hóa của dân tộc ta. Đó là một cuộc đấu tranh không hề đơn giản để một mặt, chống lại sự áp đặt văn hóa của các thế lực cường quyền, và mặt khác, phê phán và khắc phục căn bệnh tự ti, bắt chước, lai căng, hoa mắt trước một số sản phẩm văn hóa của nước ngoài.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng theo hướng vừa bảo đảm để văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ trong sáng tạo, thể hiện ở một số nội dung sau: Một là, tập trung đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, hội nhập quốc tế sâu rộng; Hai là, hoàn thiện các thiết chế văn hóa, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả, các quyền liên quan, phù hợp với chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam; Ba là, xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ văn hóa, nhất là chuyên gia đầu ngành, cán bộ ở cơ sở; Bốn là, năng mức đầu tư của Nhà nước cho văn hóa một cách thỏa đáng gắn với mở rộng xã hội hóa nguồn đầu tư, tạo cơ sở vững chắc cho quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế của nền văn hóa Việt Nam.

Thứ hai, có chính sách giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa phù hợp với điều kiện thực tiễn từng thời kỳ. Chủ động nghiên cứu, dự báo xu hướng phát triển của văn hóa trên thế giới cũng như tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn của quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế về văn hóa của nước ta để có được những cơ sở khoa học đề xuất những chiến lược giải quyế những vấn đề trước mắt cũng như lâu dài, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của văn hóa nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.

Thứ ba, trong quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa cần quán triệt sâu sắc nguyên tắc các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là nền tảng, cơ sở để tiếp thu các giá trị văn hóa mới – phát huy sức mạnh nội sinh của dân tộc. Để có thể tiếp thu những thành tựu, tinh hoa, các giá trị văn hóa của bên ngoài mà vẫn giữ được chủ quyền và bản sắc văn hóa dân tộc, làm đậm đà hơn cốt cách, tâm hồn dân tộc trong quá trình, giao lưu, tiếp nhận, kinh nghiệm lịch sử lâu dài của dân tộc Việt Nam đã chỉ ra rằng, các yếu tố nội sinh về văn hóa của chúng ta phải giữ vai trò quyết định. Nội lực của chúng ta càng mạnh, chúng ta càng có nhiều cơ hội và khả năng để tiếp nhận, chọn lọc và hợp tác, có nghĩa là nội lực đó sẽ chỉ phối các quan hệ với các yếu tố ngoại sinh, quyết định chọn lọc và tiếp nhận các yếu tố đó, đồng thời có đủ trình độ, bản lĩnh để “đồng hoá” các yếu tố đến từ bên ngoài trở thành nhân tố của chính nền văn hóa dân tộc, thành chất xúc tác cho sự phát triển hiện đại hơn nền văn hóa đó.

Thứ tư, tăng cường hiệu quả quảng bá, giới thiệu các giá trị văn hóa của dân tộc, con người Việt Nam đến với bạn bè quốc tế thông qua các sự kiện văn hóa, các tác phẩm nghệ thuật, lòng ghép trao đổi văn hóa với các hoạt động hội nhập quốc tế trên các linh vực khác...

Các sản phẩm thông tin đối ngoại để giới thiệu văn hóa có vai trò ngày càng to lớn trong việc quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam đến với nhân dân các nước, với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài và với người nước ngoài ở Việt Nam. Sự phối hợp giữa văn hóa với du lịch, hàng không, thương mại trong các hoạt động ở nước ngoài, cả kinh tế, văn hóa, du lịch, thông tin..., là một dấu hiệu mới, có tác dụng tốt, tạo nên sức mạnh chung và qua đó, góp phần tăng cường hợp tác đầu tư kinh tế, thương mại.Vì thế, nhệm vụ cơ sở trong thời gian sắp tới Đảng, nhà nước ta là cần phải đẩy mạnh hơn nữa hoạt động quảng bá văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ năm, phải xây dựng được một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa “mang đậm dấu ấn Việt Nam”, hay nói cách khác là tạo dựng thương hiệu “Văn hóa Việt Nam” trên trường quốc tế. Để làm được điều đó cần phải tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau: Một là, phải hiểu đúng bản chất của văn hóa và sự liên kết của các thành tố của nền văn hóa Việt Nam; Hai là, phải tập trung xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện; Ba là, phải xác định được một hệ giá trị cho văn hóa Việt Nam hiện tại và tương lai; Bốn là, đảm bảo văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất mà đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học. Đây là một trong những giải pháp quan trọng nhất để có thể giữ vững và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và tiếp thu các giá trị văn hóa mới của thế giới trong quá trình giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa là Việt Nam.

Thứ sáu, cần phải tiếp thu các giá trị văn hóa và những vấn đề tiếp biến của đời sống văn hóa nhân loại trên tinh thần khoa học, đánh giá đúng bản chất của giá trị văn hóa chứ không phải dựa trên góc nhìn hệ tư tưởng, quá đề cao ý thức phòng vệ, chỉ lo bảo tồn mà xem nhẹ việc tiếp thu các giá trị mới thì sẽ bỏ lỡ cơ hội để phát triển, làm giàu thêm văn hóa Việt Nam và có nguy cơ tụt hậu so với thế giới.

Kết luận

Trước sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đến đời sống văn hóa và con người Việt Nam hiện nay, giao lưu và hợp tác quốc tế về văn hóa của nước ta đang đứng trước những thời cơ và thách thức lớn, nếu không kịp thời thay đổi để giải quyết những vấn đề cấp thiết đang đặt ra cả về lý luận và thực tiễn thì nền văn hóa Việt Nam sẽ đánh mất những cơ hội để phát triển và có nguy cơ tụt hậu so với thế giới. Do vậy, trong quá trình hội nhập, hợp tác quốc tế, chúng ta phải quan tâm tới những thay đổi này để có thể chủ động đưa ra những giải pháp ứng xử kịp thời, phù hợp nhằm phát huy một cách tốt nhất những thời cơ, thuận lợi cũng như ngăn chặn, khắc phục hiệu quả mọi nguy cơ thách thức của xu thế toàn cầu hoá đối với sự phát triển bền vững của nền văn hóa Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

1.   Đào Duy Anh (2014). Việt Nam văn hóa sử cương. Hà Nội: Thế giới.

2.   Đảng Cộng sản Việt Nam (2010). Văn kiện Đảng toàn tập. Hà Nội: Chính trị quốc gia.

3.   Đảng Cộng sản Việt Nam (1996). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Hà Nội: Chính trị quốc gia.

4.   Đảng Cộng sản Việt Nam (2006). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Hà Nội: Chính trị quốc gia.

5.   Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng.

6.   Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XII. Hà Nội: Văn phòng Trung ương Đảng.

Nguyễn Huy Tưởng (Chủ biên) (1985). Bác Hồ với văn nghệ sĩ. Hà Nội: Hội Nhà văn.


[1] Nguyễn Huy Tưởng (Chủ biên), Bác Hồ với văn nghệ sĩ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 1985, tr. 52.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 517.

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 519.

[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 57, Nxb Chính trị quốc gia, 2010, tr. 300.

[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 57, Nxb Chính trị quốc gia, 2010, tr. 313.

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 111.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 214.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 57.

[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 58.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 186.

[11] Đào Duy Anh (2014). Việt Nam văn hóa sử cương. Hà Nội: Thế giới.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Top Ad

Your Ad Spot