1.
Mở
đầu
Hồ
Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức, tư tưởng. Cán bộ đảng
viên có nhiệm vụ là đảm bảo đời sống hạnh phúc cho nhân dân chứ không phải làm
“quan cách mạng”. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người khẳng định: “Đảng
ta không phải một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” (Hồ Chí Minh,
2011c, tr. 289). Trong bản Di chúc thiêng lịch sử của mình, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn toàn Đảng, toàn dân: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng
viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” (Hồ Chí Minh,
2011c, tr. 289). Nhưng để có được đạo đức cách mạng phải trải qua quá trình phấn
đấu lâu dài, rèn luyện kiên trì, chứ không phải chỉ cần viết hai chữ “cộng sản”
lên trán sẽ được quần chúng nhân dân yêu quý, như Bác từng căn dặn: “Ðạo đức
cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong” (Hồ Chí Minh, 2011h, tr. 612).
Xây
dựng đảng về đạo đức là một nội dung quan trọng trong những nội dung xây dựng Đảng,
tạo thành một khối tổng thể các nội dung định hướng cho công tác xây dựng Đảng.
Trong điều kiện hiện nay, xây dựng Đảng về đạo đức sẽ giúp tạo nên nguồn lực
con người vững mạnh, góp phần tăng cường sức chiến đấu cho tổ chức Đảng. Khi
toàn mỗi cán bộ đảng viên thực hành đạo đức trong sáng, luôn đặt lợi ích của đất
nước, của dân tộc, của nhân dân lên trên hết sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp, thống
nhất “trên dưới một lòng” trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng
những nhiệm vụ cách mạng trong tình hình mới đặt ra. Tuy vậy, vấn đề đạo đức
trong xây dựng Đảng lại chưa được đặt xứng tầm với các nội dung khác. Bên cạnh
đó, tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên và nhiều tầng lớp trong xã hội, nhất là lớp trẻ đang là vấn đề nhức
nhối trong đời sống hiện nay. Vấn nạn này được coi là một trong bốn nguy cơ đe
dọa đến vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi Đảng phải đối diện và có trách nhiệm
lớn đối với vấn đề văn hóa, đạo đức để xây dựng và phát triển nguồn lực con người
nhằm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.
Với
quyết tâm chính trị cao nhất, mỗi cán bộ đảng viên cần phải ra sức tu dưỡng đạo
đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại, thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, tin chắc rằng toàn Đảng, toàn Quân và toàn Dân ta sẽ hoàn thành nhiệm
vụ cách mạng đặt ra trong thời kỳ mới.
2.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tu dưỡng đạo đức cách mạng
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của tu dưỡng đạo đức cách mạng đối với cán bộ đảng
viên
Theo
Hồ Chí Minh, cách mạng nhất định sẽ thành công, đó là một điều chắc chắn nhưng
thời gian sớm hay muộn, thuận lợi hay khó khăn... còn tùy thuộc vào trình độ
giác ngộ của “yếu tố con người”, tức là trình độ giác ngộ và ý chí của quần
chúng nhân dân, đó là nhân tố chủ quan góp phần quan trọng vào sự thành công của
cách mạng. Báo cáo tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng lao động
Việt nam, Hồ Chí minh nói: “Lực lượng ta và địch so le nhiều như thế, cho nên
lúc đó có người cho rằng: cuộc kháng chiến của ta là “châu chấu đá voi” (Hồ Chí
Minh, 2011d, tr. 163). Có thể thấy rõ tương quan lực lượng thực tế của ta và địch
là rất chênh lệch: Có thể minh chứng cho việc này là ta phải dùng gậy tầm vông
để chống lại máy bay ném bom hay đại bác của quân địch. Nhưng Đảng ta lấy Chủ
nghĩa Mác – Lênin làm “kim chỉ nam”, chúng ta không chỉ nhìn vào hiện tại mà
còn nhìn vào tương lai, và vững niềm tin vào tinh thần chiến thắng phía trước dành
cho những sự cố gắng và hi sinh của của dân tộc. Cho nên chúng ta quả quyết trả
lời những người lừng chừng bi quan kia rằng:
“ Nay tuy châu chấu đá voi,
Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”
(Hồ Chí Minh, 2011d, tr. 163)
Bên
cạnh đó, Người còn nhấn mạnh, đạo đức cách mạng liên quan tới thành bại của
cách mạng. Vì vậy, đạo đức phải được đặt trước tài: “Mọi việc thành hay bại, chủ
chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không” (Hồ Chí Minh,
2011g, tr. 354). “Chính trị là linh hồn, chuyên môn là cái xác. Có chuyên môn
mà không có chính trị thì chỉ còn cái xác không hồn. Phải có chính trị trước rồi
có chuyên môn... Nói tóm lại, chính trị là đức, chuyên môn là tài. Có tài mà
không có đức là hỏng” (Hồ Chí Minh, 2011g, tr 492.)
Từ
những nhận định trên, ta thấy được vai trò và tác động quan trọng của đạo đức
cách mạng đối với sự nghiệp cách mạng. Đạo đức cách mạng giúp cho con người vững
vàng trước mọi thử thách. Người có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại không rụt rè, lùi bước; “khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững
tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn”, mới “lo trước thiên hạ, vui sau
thiên hạ”; “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ;
không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.
Xác
định được tầm quan trọng của vấn đề đạo đức, trong suốt cuộc đời hoạt động cách
mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương mẫu mực, thực hiện triệt để nhất
những phẩm đạo đức cách mạng. Bác thường nhắc nhở: “Trước mặt quần chúng, không
phải ta cứ viết lên trán chữ “Cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ yêu quý những người
có tư cách, đạo đức” (Hồ Chí Minh, 2011c, tr. 552). Vì Thế, mỗi cán bộ đảng
viên phải ra sức học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng để có thể đảm
nhận và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng mà đất nước, nhân dân giao phó.
Khi
nhắc nhở cán bộ đảng viên phải tu dưỡng đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh thường kể
câu chuyện về cách tu dưỡng đạo đức của một nhà hiền triết. Hàng ngày, vào mỗi
buổi sáng, nhà hiền triết để hai cái lọ và một ít đậu trắng và đậu đen trước mặt.
Mỗi khi nghĩ về một điều thiện ông sẽ bỏ một hạt đậu trắng vào một chiếc lọ,
ngược lại, nếu nghĩ đến điều ác ông sẽ bỏ một hạt đậu đen vào lọ còn lại. Tối đến
trước khi ngủ ông lấy hai lọ ra đếm và xem mình nghĩ đến điều gì nhiều hơn. Cứ
như thế, ban đầu thì số lượng đậu đen nhiều hơn nhưng về sau thì số đậu dần bằng
nhau và số đậu trắng bắt đầu nhiều hơn đậu đen khi ông bắt đầu biết nghĩ về điều
thiện nhiều hơn.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp tu dưỡng đạo đức cho cán bộ, đảng viên
Đối
với Hồ Chí Minh việc rèn luyện đạo đức cách mạng của người cán bộ đảng viên
khác hẳn nhà hiền triết mặc dù cả hai đều đỏi hỏi sự bền bỉ, kiên trì. Đạo đức
cách mạng, đạo đức chân chính đòi hỏi người cán bộ đảng viên phải gắn bó chặt
chẽ với cuộc sống chiến đấu và sản xuất, xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân
dân, Người từng căn dặn: “Đạo đức cách mạng là hòa mình với quần chúng thành một
khối, tin quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng” (Hồ Chí Minh, 2011g, tr.
290). Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, để tu dưỡng đạo đức cách mạng thì mỗi cán bộ đảng
viên cần phải chú ý một số luận điểm sau:
Một là, thường xuyên học tập lý luận
của chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng
và pháp luật của Nhà nước.
Theo
Hồ Chí Minh, để nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, làm cho tất
cả cán bộ đảng viên xứng đáng với niềm tin của nhân dân thi mỗi cán bộ đảng
viên cần ra sức học tập lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ trương, đường
lối lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về nhiệm vụ và phẩm chất đạo đức của người đảng
viên. Theo Người, đây là vấn đề cốt lõi, tạo nên lập trường chính trị cũng như
cơ sở lý luận cho người cán bộ đảng viên trước những cám dỗ vật chất cũng như
những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, “thực chất đây là giải pháp
nhằm thiết lập và giữ vững nền tảng tư tưởng, lý luận, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng, tạo dựng cái nền, gốc của toàn Đảng và với mỗi cán bộ, đảng viên” (Bộ
Quốc phòng, 2017, tr. 180).
Hồ
Chí Minh nhấn mạnh, để làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng
phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, củng cố lập trường giai cấp và truyền
thống vẻ vang của cách mạng Việt Nam. Đội ngũ cán bộ, đảng viên không ngừng học
tập nâng cao nhận thức của mình về chính trị, tư tưởng, kiên quyết đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân. Bên cạnh đó còn phải thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng các phẩm
chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên cần có như trung với nước,
hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, “một lòng một dạ” vì lợi
ích của nhân dân, lợi ích của Tổ quốc.
Hồ
Chí Minh cho rằng phê bình và tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là
vũ khí sắc bén trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và xây dựng Đảng
về đạo đức nói riêng. “Đó là phương thuốc hay nhất, giúp cho toàn Đảng và mỗi
cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, đồng thời sửa chữa, khắc phục khuyết điểm để
ngày càng tiến bộ. (Bộ Quốc phòng, 2017, tr. 181). Tự phê bình và phê bình,
theo Người là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết. Vì vậy, phải kiên trì,
thường xuyên, liên tục, mạnh dạn thừa nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, khắc
phục. Bác từng dạy: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng.
Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà
có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi
cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn,
chân chính” (Hồ Chí Minh, 2011c, tr. 261). Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải có
thái độ, phương pháp đúng, trên tình thương yêu giai cấp, tự phê bình mình cũng
như phê bình người, phải triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt, đồng
thời không dùng những lời mỉa mai, chua cay, thâm độc. Phê bình việc chứ không
phê bình người, kiên quyết chống bệnh tự mãn, kiêu ngạo, ba hoa, phải thực hành
khẩu hiệu “chí công vô tư”. Người được phê bình phải cầu thị, nghiêm túc tiếp
thu ý kiến phê bình của đồng chí mình, phải có ý chí quyết tâm khắc phục sai lầm,
khuyết điểm.
Bên
cạnh vai trò của chế độ sinh hoạt Đảng đối với sự hình thành và tu dưỡng đạo đức
của người cán bộ, đảng viên thì công tác kiểm tra cũng có vai trò rất quan trọng,
nó giúp cho cấp ủy Đảng kịp thời nắm bắt tình hình tư tưởng, đạo đức của cán bộ,
đảng viên trong tổ chức để kịp thời có biện pháp điều chỉnh hiệu quả. Người cho
rằng: “Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm minh. Kỷ luật của Đảng phải
nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ” (Hồ Chí Minh, 2011j, tr.
547). Hồ Chí Minh còn cho rằng, với người cộng sản, sự nghiêm minh, trách nhiệm
không tách rời tinh thần tự nguyện, tự giác, Người viết: “Về kỷ luật, Đảng Lao
động Việt Nam phải có kỷ luật sắt, đồng thời là kỷ luật tự giác” (Hồ Chí Minh,
2011e, tr.41).
Hai là,
phát huy vai trò nêu gương, nói đi đôi với
làm của người cán bộ, đảng viên. Nêu gương chính là việc thực hành để những
giá trị của đạo đức và tài năng của người lãnh đạo được lan tỏa, dẫn dắt, truyền
cảm hứng thúc đẩy mọi hành động của cấp dưới và người dân. Việc xây dựng phong
cách nêu gương của cán bộ là một nội dung quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về tu dưỡng đạo đức cách mạng. Theo Người: “một tấm gương sống còn có giá trị
hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” (Hồ Chí Minh, 2011a, tr. 284).
Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã từng viết những dòng xúc động về tấm gương đạo đức vĩ đại của
V.I.Lênin: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự
xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là
đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc
châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi” (Hồ
Chí Minh, 2011a, tr. 295). Đến lượt mình, chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt cuộc
đời đã là một tấm gương mẫu mực cho toàn Đảng, toàn dân noi theo về lòng trung
thành vô hạn với lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, với Tổ quốc và nhân dân. Người là
còn hiện thân của đức hy sinh và lòng dũng cảm, tận trung với nước, tận hiếu với
dân. Người dấn thân và hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, tự do cho dân tộc và hạnh
phúc cho đồng bào mình. Người đấu tranh không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội để giải phóng con người khỏi
ách thống trị, áp bức, bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực
dân. Người phấn đấu quên mình để thực hiện khát vọng tự do, thực hiện những quyền
cơ bản, thiêng liêng cho con người: quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu
hạnh phúc.
Theo
Hồ Chí Minh, nêu gương gắn liền với chủ thể và hành động của chủ thể, tạo ra ảnh
hưởng tích cực tới các chủ thể khác, từ cá nhân tới xã hội, thúc đẩy sự noi
gương, học tập và làm theo các tấm gương điển hình của các cá nhân, tập thể
khác, làm cho người tốt lên, việc tốt lên, thực chất chứ không hình thức, thường
xuyên, bền bỉ như một nhu cầu văn hoá chứ không nhất thời; thiết thực, hiệu quả
chứ không phù phiếm, khoa trương. Người viết: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải
làm mực thước cho người ta bắt chước…” (Hồ Chí Minh, 2011c, tr. 552), hay “Nếu
chính mình tham ô bảo người ta liêm khiết có được không? Không được. Mình trước
hết phải siêng năng, trong sạch thì mới bảo người ta trong sạch, siêng năng được…”
(Hồ Chí Minh, 2011e, tr.59).
Khi
nhắc đến vai trò nêu gương về đạo đức của người cán bộ, đảng viên, Người thường
xuyên nhấn mạnh về bốn đức để làm người, để trở thành người toàn diện, đó là cần,
kiệm, liêm, chính, cũng có khi, Người đề cập tới nhân - trí - dũng - liêm –
trung. Nêu gương đạo đức còn là nêu gương về lòng trung thực, sự chân thành,
thành thực. Nó đối lập với thói giả dối, với những khuất tất, mờ ám, bất minh,
bất chính. Người có đạo đức và tự mình nêu gương đạo đức cho người khác noi
theo còn là người có đức khiêm tốn, giản dị, có lòng vị tha, nhân ái, khoan
dung, xa lạ với thói kiêu ngạo, thói vụ lợi, vị kỷ, đầu óc hẹp hòi, đố kỵ, những
ham muốn danh lợi, địa vị, chức quyền.
Theo
Hồ Chí Minh, nêu gương đạo đức bao hàm cả thái độ lẫn tình cảm và hành vi. Mục
đích, động cơ trong sáng phải thể hiện nhất quán trong việc làm, hành động và ứng
xử cũng như tự ứng xử, sao cho nói đi đôi với làm, đã nói là làm, biết suy nghĩ
kỹ lưỡng, thấu đáo “có làm được thì hãy nói” và thường là nói ít, làm nhiều như
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh.
Để có thể trời thành tấm gương cho nhân dân noi theo, Hồ
Chí Minh cho rằng, người cán bộ, đảng
viên phải công tâm, phải “chí công vô tư”, mọi việc lớn nhỏ đều chỉ hướng tới lợi
ích của dân chúng, của cộng đồng với tinh thần toàn tâm toàn ý phục vụ nhân
dân, đặt việc nước việc dân lên trên hết, trước hết, “dĩ công vi thượng”,
“quang minh chính đại” và “tinh thần đoàn kết”, việc gì có lợi cho dân thì quyết
làm cho bằng được, việc gì có hại tới dân thì quyết tránh cho bằng được. Người
căn dặn: “Đảng viên là người thay mặt Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, lợi ích của người đảng viên phải ở
trong chứ không thể ở ngoài lợi ích của Đảng, của giai cấp. Đảng và giai cấp thắng
lợi và thành công, tức là đảng viên thắng lợi và thành công. Nếu rời khỏi Đảng,
rời khỏi giai cấp, thì cá nhân dù tài giỏi đến mấy, cũng nhất định không làm
nên việc gì” (Hồ Chí Minh, 2011h, tr. 607).
Theo Người, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội không phải ở lý
tưởng cao xa nào mà trước hết, cụ thể và trực tiếp, là ở những người cộng sản
ưu tú bằng tấm gương sống và hành động của mình, chiến đấu cho lý tưởng đó
thành hiện thực. Niềm tin của quần chúng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội sẽ
được tăng cường hay bị suy giảm không phải ở những sai lầm và thất bại tạm thời
khó tránh khỏi trên con đường mới mà chủ yếu lại là ở sự sa sút, thoái hóa của
những người được mệnh danh là "những chiến sỹ tiên phong" trước thắng
lợi hay khó khăn, thử thách của cách mạng đặt ra.
Tóm lại, với vị trí, vai trò quan trọng, vấn đề nêu gương về
đạo đức của mỗi cán bộ đảng viên không chỉ thúc đẩy người cán bộ, đảng viên
tích cực trao dồi, rèn luyện các phẩm chất đạo đức cách mạng, mà nó còn có tác
động rất lớn đến việc tạo nên một xã hội phát triển và củng cố niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng cũng như quyết định vấn đề thành bại của cách
mạng Việt Nam trong thời đại mới, đó cũng là di huấn quan trọng của Bác Hồ: “Lấy
gương người tốt việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách
tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới,
cuộc sống mới” (Hồ Chí Minh, 2011i, tr. 558)
Ba là,
tu dưỡng đạo đức cách mạng phải là việc
làm thường xuyên, liên tục, suốt đời. Với trí tuệ sáng suốt, tầm nhìn xa rộng,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tiên tri, tiên lượng về những căn bệnh của những
người có chức, có quyền và đã sớm chỉ ra những biện pháp cần đề phòng, khắc phục,
trong đó Người đặt lên hàng đầu việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức
cho cán bộ, đảng viên. Không lâu trước khi qua đời, Người đã từng cảnh báo: “Một
dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn,
không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu
lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân” (Hồ Chí Minh, 2011j,
tr. 672).
Suốt
đời tu dưỡng rèn luyện đạo đức để thấm nhuần và thực hành đạo đức cách mạng,
đây vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp trong xây dựng đạo đức mới. Theo Hồ
Chí Minh, tu dưỡng đạo đức như một cuộc cách mạng trường kỳ, gian khổ. Mỗi người
phải kiên trì rèn luyện, tu dưỡng suốt đời. Việc tu dưỡng đạo đức của mỗi người
phải được thực hiện qua hoạt động thực tiễn, thực hiện nhiệm vụ, công việc được
giao.
Tư
tưởng Hồ Chí Minh về tu dưỡng đạo đức cách mạng suốt đời thể hiện ở một số nội
dung chủ yếu sau:
Một là,
việc tu dưỡng đạo đức phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, lâu dài, suốt
cả cuộc đời. Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ: mỗi người phải thường xuyên, chăm
lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày, đó cũng là công việc phải làm cần
kiên trì, bền bỉ suốt cả cuộc đời, không thể chủ quan tự mãn. Hồ Chí Minh khẳng
định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong” (Hồ Chí Minh, 2011h, tr. 612). Hồ Chí Minh
cũng đã nhiều lần nhấn mạnh tu dưỡng đạo đức là một quá trình đấu tranh quyết
liệt, lâu dài trong nội tâm của mỗi con người. Vì thế, việc rèn luyện đạo đức
đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có dũng khí đấu tranh với chính mình và phải
kiên trì bền bỉ, nỗ lực tu dưỡng suốt đời. Sự khó khăn đó được Người ví như
trong bản thân mỗi con người đều có “hai phe: một phe thiện và một phe ác. Hai
phe cùng đấu tranh với nhau. Nếu đấu tranh để phe thiện thắng thì phe ác phải bại.
Nếu không đấu tranh mà để cho phe thiện bại, thì là hỏng” (Hồ Chí Minh, 2011f.
tr. 98).
Hai là, việc
tu dưỡng đạo đức phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện dựa vào nội tâm của mỗi
người cán bộ, đảng viên. Trong khi đào tạo các lớp cán bộ cho cách mạng, Hồ Chí
Minh luôn quan tâm, phải làm thế nào để mọi người tự nhận thấy việc tu dưỡng đạo
đức cách mạng là một việc phải kiên trì, thường xuyên, liên tục. Người nhắc lại
luận điểm của Khổng Tử là “chính tâm, tu thân” để “tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”, và chỉ rõ: “Chính tâm, tu thân tức là cải tạo. Cải tạo cũng phải trường kỳ
gian khổ, vì đó là một cuộc cách mạng trong bản thân của mỗi con người. Bồi dưỡng
tư tưởng mới để đánh thắng tư tưởng cũ, đoạn tuyệt với con người cũ để trở
thành con người mới không phải là việc dễ dàng… Dù khó khăn gian khổ, nhưng muốn
cải tạo thì nhất định thành công” (Hồ Chí Minh, 2011f, tr. 300 - 301). Nếu người
cán bộ, đảng viên không làm được điều đó thì dù xây dựng được đạo đức cách mạng
thì nó rồi cũng sẽ mất đi ở thời kì khác,
vì không được củng cố, bổ sung liên tục.
Ba là, việc
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng suốt đời của người cán bộ đảng viên phải
thông qua các hoạt dộng thực tiễn trong đời sống hàng ngày cũng như trong công
việc. Trong cuộc sống, mỗi người có nhiều cương vị, nhiều vai trò khác nhau đòi
hỏi phải điều chỉnh hành vi của mình, và phẩm chất đạo đức của mỗi người được
thể hiện rất cụ thể, phong phú và đa dạng, chỉ thông qua hoạt động thực tiễn,
thông qua quá trình tu dưỡng rèn luyện công phu mới có thể đạt được phẩm chất đạo
đức tốt đẹp và phẩm chất ấy ngày càng được bồi đắp, nâng cao, hoàn thiện. Bài học
đó đã được Hồ Chí Minh đúc kết ở 4 câu thơ:
“Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông;
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian lao rèn luyện mới thành công.”
(Hồ Chí Minh, 2011b, tr. 382)
3.
Vai
trò của đạo đức trong chủ trương xây dựng Đảng hiện nay
Một
trong những nội dung quan trọng trong chủ trương xây dựng Đảng hiện nay là xây
dựng đạo đức cho cán bộ đảng viên. Cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng thì tổ
chức mới vững mạnh, khó khăn nào cũng có thể vượt qua, nhiệm vụ nào cũng hoàn
thành. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng chủ trương đưa việc thường
xuyên giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo đức thành một nội dung quan trọng trong
công tác xây dựng Đảng, thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, tr.
202). Như vậy, xây dựng Đảng về đạo đức đã trở thành một nhiệm vụ chủ yếu, cấp
bách của công tác xây dựng Đảng, được đặt ở vị trí ngang hàng với xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng và tổ chức, điều này đã chứng tỏ vị trí, vai trò quan trọng
của đạo đức trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Quán
triệt tinh thần Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về việc đẩy mạnh học tập và làm
theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với chủ đề từng năm, đây là
nội dung quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Trong
đó, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức nếu tách rời với đạo đức, văn
hóa thì đã thiếu những bảo đảm về đạo đức, văn hóa vốn hết sức cần thiết và
quan trọng cho sự vững mạnh của chính trị tư tưởng và tổ chức. Hơn nữa, do thiếu
vắng hoặc xem nhẹ đạo đức, văn hóa trong xây dựng Đảng, nhất là khi Đảng đã cầm
quyền, lại lãnh đạo, cầm quyền trong nền kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập…
sẽ dẫn tới tình trạng suy thoái.
Tuy
nhiên, trong một thời gian dài, chúng ta chưa có được nhận thức đúng đắn về xây
dựng Đảng về đạo đức khi cho rằng: xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức.
Nêu lên và nhấn mạnh vào ba mặt đó của xây dựng Đảng, trong quan niệm của chúng
ta, vấn đề đạo đức và văn hóa đã được lồng ghép trong lĩnh vực xây dựng Đảng về
tư tưởng, nhất là, khi nói tới xây dựng Đảng về tư tưởng đã mặc định bao trùm cả
đạo đức trong đó. Xét về mặt lý luận, xây dựng Đảng về tư tưởng là đã bao hàm
xây dựng Đảng về đạo đức thì đây mới chỉ là ý
thức đạo đức, nhận thức xây dựng Đảng về đạo đức chưa trở thành một nội
dung độc lập, có quan hệ với tất cả các lĩnh vực khác trong xây dựng Đảng.
Nhưng cái quan trọng, cốt yếu là Tình cảm
đạo đức và biểu hiện của nó ra hành
vi đạo đức và trở thành lẽ sống tác động tích cực đến hành động của con người.
Chính sự nhận thức chưa rõ và chưa đầy đủ về xây dựng Đảng về đạo đức đã dẫn đến
sự suy thoái về đạo đức của cán bộ đảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo, quản lý.
Có
thể khẳng định Đại hội XII là lần đầu tiên Đảng ta đã có nhận thức toàn diện về
xây dựng Đảng, đã mở rộng nội dung xây dựng Đảng trên mọi lĩnh vực, mọi phương
diện, mọi mối quan hệ, do đó đã đặt vấn đề đạo đức và văn hóa trong Đảng, xác định
rõ ràng xây dựng Đảng về đạo đức và xây dựng văn hóa trong Đảng. Xây dựng Đảng
về đạo đức, về văn hóa trong tình hình hiện nay là điểm mấu chốt, cốt lõi làm
cho Đảng trong sạch, vững mạnh, ngang tầm nhiệm vụ, xứng đáng là Đảng lãnh đạo
và cầm quyền.
Xây
dựng Đảng về đạo đức, rèn luyện phảm chất, nhân cách đảng viên là nền tảng, là
điều kiện quan trọng quyết định thành công cho các nội dung khác trong chủ
trương xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh như: Đổi mới,
kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Kiện toàn tổ chức,
nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng và nâng cao
chất lượng đảng viên. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, coi trọng công tác bảo vệ
chính trị nội bộ. Đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát, kỷ luật Đảng. Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đẩy mạnh đấu tranh phòng,
chống tham nhũng, lãng phí. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Xây
dựng Đảng hiện nay về đạo đức, cần quán triệt quan điểm “xây” là nhiệm vụ cơ bản,
chiến lược lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Phải dựa trên những
chuẩn mực đạo đức cách mạng để tăng cường xây dựng Đảng; quyết tâm ngăn chặn, đẩy
lùi những biểu hiện suy thoái đạo đức, lối sống, mà trước hết là chủ nghĩa cá
nhân, ích kỷ, thực dụng, chống tham nhũng,
lợi dụng chức quyền để trục lợi, chống quan liêu xa rời quần chúng, vô cảm,
thiếu trách nhiệm với nhân dân. Chống lối sống hoang phí, buông thả trái với đạo
đức truyền thống của dân tộc và phẩm hạnh của người cộng sản.
Xây
dựng Đảng về đạo đức là xây dựng Đảng từ gốc, xây dựng sức mạnh nội sinh cho
cách mạng nước ta. Muốn vậy mỗi cán bộ, đảng viên của đảng tiếp tục gương mẫu
đi đầu trong tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là tấm gương cho quần
chúng làm theo. Vì thế, vấn đề xây dựng Đảng về đạo
đức luôn được Đảng xác định có vai trò rất quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.
Đặc biệt trong đó, việc giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ,
đảng viên được xem là khâu then chốt để Đảng luôn xứng đáng, tiêu biểu cho “trí
tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”.
4.
Giải
pháp tăng cường hiệu quả xây dựng Đảng về đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện
nay
Văn
kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với
chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Tăng
cường rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng...” (Đảng Cộng sản Việt
Nam, 2016, tr. 47). Xây dựng Đảng về đạo đức thực chất là xây dựng văn hóa Đảng,
xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có
đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đó vừa là phương diện
hợp thành của nội dung xây dựng Đảng, vừa là nhân tố đảm bảo thành công cho xây
dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bởi lẽ, cán bộ, đảng viên có đạo đức
trong sáng thì chính trị, tư tưởng sẽ trong sáng, tổ chức sẽ đoàn kết, vững mạnh,
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng được khẳng định trong thực tiễn.
Trong bài viết, tác giả đề xuất một số giải pháp chủ yếu để tăng cường hiệu quả
xây dựng Đảng về đạo đức dựa trên cơ sở học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về tu dưỡng
đạo đức cách mạng, tập trung ở một số giải pháp sau:
Một là, xác định đúng vai trò theo chốt,
nền tảng của xây đựng đâọ đức với các nội dung khác trong công cuộc xây dựng Đảng
hiện nay. Dưới tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ
quan, đã và đang có những biểu hiện suy thoái và tha hóa về đạo đức cách mạng ở
một bộ phận cán bộ, đảng viên. Biểu hiện là một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên đang “nhạt đảng, nhạt lý tưởng”, sống thực dụng, chỉ chạy theo lợi ích
riêng tư, mang danh hiệu đảng viên nhưng sống và hành động không như một người
cộng sản chân chính, “mang danh Đảng để chống lại Đảng”, với kỷ luật của Đảng
thì thực hiện qua loa, hình thức, vô thưởng vô phạt... chính những bộ phận cán
bộ, đảng viên đó đã làm xấu đi hình ảnh của Đảng trong lòng Nhân dân, suy giảm
niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đáp ứng yêu cầu của cách mạng
nước ta trong tình hình mới, Đảng ta phải xem xây dựng Đảng về đạo đức là nội
dung trọng yếu và góp phần quan trọng, quyết định thành công chung của toàn bộ
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Hai là,
tiếp tục đẩy mạnh Cuộc vận động học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với chủ đề từng năm.
Học tập và làm theo tấm gương của Người không chỉ là niềm vinh dự và tự hào, mà
còn trở thành nhiệm vụ quan trọng và thường xuyên đối với mỗi chúng ta trong
quá trình rèn luyện, tu dưỡng để trở thành những công dân tốt, người lao động tốt.
Đây vừa là nhiệm vụ quan trọng, vừa là giải pháp có tính đột phá nhằm đưa tư tưởng,
đạo đức, phong cách của Người thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của
đời sống xã hội, xây dựng văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ba là,
tăng cường tính tự giác trong rèn luyện,
tu dưỡng các phẩm chất đạo đức cách mạng cũng như nâng cao vai trò nêu gương của
người cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo các cấp, người đứng đầu cơ
quan, đơn vị. Những phẩm chất đạo đức của người cán bộ, đảng viên hiện nay
cần có là: tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân;
tin tưởng vào thắng lợi của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, luôn đặt lợi ích
của nhân dân, của đất nước lên trên hết; có lòng nhân ái và gương mẫu về đạo đức,
lối sống; thực hiện tốt cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bên cạnh rèn
luyện, tu dưỡng đạo đức thì người cán bộ, đảng viên còn phải không ngừng học tập
để nâng cao trình độ mọi mặt để hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
đặt ra. Có như vậy, Đảng ta mới khẳng định được uy tín, tạo ra sức hút để tập hợp,
quy tụ và phát huy cao độ sức mạnh của quần chúng trong thực hiện các nhiệm vụ
của cách mạng. Theo đó, các cấp ủy, tổ chức cần quán triệt, tổ chức cho cán bộ,
đảng viên thực hiện nghiêm các quy định về nêu gương, làm cho việc nêu gương của
cán bộ, đảng viên trở thành lẽ sống hằng ngày, tạo sức lan tỏa trong Đảng và
ngoài xã hội, làm cho cái tốt, cái đẹp được nhân lên, cái xấu và cái tiêu cực bị
đẩy lùi.
Bốn là,
tăng cường vai trò làm chủ, kiểm tra và
giám sát của nhân dân với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng
viên hướng đến củng cố và phát triển mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với
nhân dân. Giám sát cán bộ, đảng viên là một việc làm cần thiết nhưng không
dễ dàng thực hiện, do đó cần phải có cơ chế khen thưởng, động viên kịp thời để
khuyến khích người dân giám sát những việc làm sai trái trong đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên, cũng là để nhân lên những hành động đẹp, những tấm gương
đẹp. Từ đó, làm chuyển biến về hành động, nâng cao trách nhiệm, ý thức rèn luyện,
cải tiến lề lối làm việc, cán bộ, đảng viên trong mỗi cơ quan, đơn vị chủ động
phòng ngừa, ngăn chặn được các biểu hiện tiêu cực, vi phạm kỷ luật, đạo đức, lối
sống, mất đoàn kết, ngăn chặn tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
5. Kết luận
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
là sự kết tinh những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chứa đựng
những hạt nhân hợp lý, chắt lọc từ tinh hoa giá trị đạo đức nhân loại, cùng với
sự vận dụng, phát triển lý luận của chỉ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với những điều
kiện kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, hướng tới những giá trị mang tầm thời
đại. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của tu dưỡng đạo đức cách mạng cho
cán bộ, đảng viên, trong tình hình mới, Đảng ta luôn xác định đạo đức là nội
dung cốt lỗi, nền tảng tư tưởng và là “cái gốc vững chắc” cho sự nghiệp xây dựng
Đảng trong sạch, vững mạnh, để xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách
mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhiệm vụ cấp bách, trước
mắt, cũng như lâu dài trong tương lai của Đảng ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét