1.1.
CÁC QUAN NIỆM TRƯỚC MÁC VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Các
nhà triết học cổ đại phương Đông khoảng thế kỷ thứ V-IV trước công nguyên (TCN)
như Khổng Tử, Lão Tử, Mặc Tử đã đề cập đến vấn đề khả năng nhận thức của con
người về thế giới.
Khổng
Tử, Lão Tử, Mặc Tử đã đề cập đến vấn đề khả năng nhận thức của con người về thế
giới. Khổng Tử cho rằng, con người có khả năng nhận thức thế giới thông qua nhận
thức cảm tính. Theo ông, nhờ cái sẵn có tự nhiên trong con người gồm có minh đức
và lương tri. Cái đó thể hiện qua trực giác, nhờ trực giác mà con người có thể
nhận thức được chân lý,nhận thức đúng bản chất của sự vật và cái sai khiến trực
giác đó lại nằm trong tâm mỗi con người nhờ tâm này mà con người có thể làm chủ
được hành vi của mình nhưng trong lý luận nhận thức. Như vậy, ở đây Khổng Tử chỉ
thiên về nhận thức cảm tính mà không bàn đến nhận thức lý tính tư duy trừu tượng,
cho nên nhận thức thế giới của ông chỉ dừng ở bên ngoài hình tượng mà không đi
đến bản chất của sự vật. Vì vậy, khi bàn về con người Khổng Tử không xây dựng một
con người nhận thức và hành động, không làm chủ thế giới để đạt đến mục đích là
mưu đến lợi ích vật chất mà chính là xây dựng con người luân lý đạo đức, con
người nhân nghĩa theo một nguyên mẫu có sẵn, từ đó xây dựng một xã hội có tôn
ti trật tự, trên dưới phân minh.
Còn Mặc Tử lại cho rằng, tri thức của loài người có được
là do nhận thức thế giới quan ở phần lí luận nhận thức, Mặc Tử thấy được vai
trò của thực tiễn, tuy nó còn rất mơ hồ. Ông viết, nhận thức là do vật thể và
ông giải thích: “Nhận thức là gì? là cái mà cho ta biết được, mà đã biết được
thì phải nhìn thấy rõ và hình dung ra nó như người ta trông thấy bằng thị giác”
(Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2007, tr.41). Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại thế kỷ
VI-V (TCN) cũng bàn nhiều về vấn đề lý luận và thực tiễn, về khả năng nhận thức
của con người đối với thực tiễn, tiêu biểu là Platôn và Arixtốt. Platôn cho rằng,
thế giới những sự vật cảm tính và thế giới ý niệm là hai thế giới song song
cùng tồn tại và độc lập với nhau, vật chất được Platôn hiểu theo nghĩa là cái
không tồn tại, không nhìn thấy được, không nhận thức được nhưng lại là nguồn gốc
của cái nhiều, cái đơn nhất, cái sinh ra và cái tử. Như vậy, ở đây Platôn cho rằng
con người không có khả năng nhận thức thế giới và thế giới là từ ý niệm mà ra.
Arixtốt là một trong những người có quan niệm cổ điển về chân lý, ông đã cho rằng,
chân lý là sự phù hợp giữa quan niệm con người về sự vật với sự vật tồn tại
trên thực tế. Theo Ông, tự nhiên là tính thứ nhất, tri thức là tính thứ hai,
nhiệm vụ của nhận thức là nhận thức cái tất yếu của tự nhiên và phản ánh vào
trong khái niệm.
Con đường hình thành khái niệm diễn ra như sau: Cảm giác
- kinh nghiệm - nghệ thuật - khoa học. Đây là sự phát triển đi lên từ thấp đến
cao và các giai đoạn phát triển này có liên quan chặt chẽ đến nhau, giai đoạn
trước làm tiền đề cho giai đoạn sau. Trong khoa học các phạm trù và các khái niệm
được hình thành, trong đó triết học là khoa học có tính khái quát cao nhất. Đây
là quan niệm rất tiến bộ về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn trong thời kỳ
cổ đại.
Triết
học tiền tư bản chủ nghĩa tiêu biểu là triết học Anh, chủ nghĩa duy vật Pháp và
triết học cổ điển Đức. Triết học Anh cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, đại diện
là triết học duy tâm chủ quan của Béccơli và bất khả tri luận của Hium. Họ cho
rằng, ý thức là cái tồn tại có thực, còn sự vật chỉ có trong cảm giác, trong
khái niệm, trong “cái tôi” do ý thức sản sinh. Do vậy, họ cho rằng nhận thức lý
luận không phải là phản ánh hiện thực khách quan mà chỉ là phản ánh những trạng
thái nội tâm của chủ quan con người. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đại diện
là HônBách và Điđrô đã có sự phát triển thêm học thuyết về cảm giác luận duy vật.
Họ cho rằng, cảm giác là nguồn gốc của tri thức, nguồn gốc của cảm giác là sự vật.
Ngoài ra họ đã thừa nhận nhận thức lý tính chế biến những tư tưởng đơn giản
thành tư tưởng phức tạp.
Các
nhà duy vật Pháp thấy được mối liên hệ giữa nhận thức lý tính và nhận thức cảm tính thấy được sự phát triển của sản xuất ảnh
hưởng sự phát triển của tư duy. Chủ nghĩa duy vật pháp cũng đã thấy được thực
tiễn là cơ sở của nhận thức. Đây là những tư tưởng rất tiến bộ lúc bấy giờ mà
sau này được đánh giá cao. Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII, đại diện là chủ
nghĩa duy tâm khách quan của Hêghen cho rằng, “Tinh thần thế giới” hay “ý niệm”
đó là cơ sở đầu tiên của mọi tồn tại, nó có trước thế giới vật chất. Còn nhận
thức lý luận là sự “tự nhận thức”. Ông cho rằng, “Trong ý niệm lý luận, khái niệm
chủ quan với tư cách là cái chung và tự nó không có tính qui định, đứng đối lập
với thế giới khách quan mà từ đó nó lấy một nội dung và một bổ sung đầy đủ nhất
định” (V.I. Lênin, 1981, tr.299).
Như vậy, Hêghen thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách
quan “ý niệm” đối lập với thế giới khách quan, nhưng “ý niệm lý luận” theo
Hêghen là cái có 16 trước sinh ra thế giới khách quan. Tư tưởng này không tránh
khỏi sai lầm của chủ nghĩa duy tâm khách quan. Các học thuyết khác, như Thuyết
hoài nghi: Không tin là con người có thể nhận thức được thế giới khách quan, đại
biểu là Pirô 360 - 270 (TCN). Thuyết không thể biết cho rằng nhận thức của con
người chỉ phản ánh bề ngoài của sự vật chứ không nhận thực được bản chất của sự
vật. Như vậy, chủ nghĩa duy tâm và những học thuyết biến tướng của nó bằng cách
này hay cách khác không thừa nhận nhận thức của con người là sự phản ánh thế giới
khách quan, không thấy được sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Các
nhà duy vật trước Mác tuy có nhiều tiến bộ và kiên quyết chống lại chủ nghĩa
duy tâm nhưng quan niệm về nhận thức còn hạn chế mang tính trực quan máy móc,
coi nhận thức của con người như là sự phản ánh của cái gương. Còn các nhà duy vật
thô thiển quan niệm rằng, óc tiết ra tư tưởng cũng như gan tiết ra mật từ đó dẫn
đến họ không phân biệt được đặc tính riêng của tinh thần hay nhận thức và đi đến
đồng nhất vật chất với tinh thần.
Quan
niệm tiến bộ nhất về mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa duy vật
trước Mác là triết học của Cantơ. Ông đã nhận thấy vai trò đặc biệt của tri thức
lý luận đối với khoa học, ông coi đây là nền tảng của quá trình nhận thức chân
lý của con người. Vì thế, giải quyết nhiệm vụ trên cũng có nghĩa là luận chứng
sự tồn tại của các khoa học lý luận thời đó. V.I.Lênin nhận xét: “Lần đầu tiên
trong lịch sử Cantơ hiểu được vai trò quyết định của hành động thực tiễn con
người, đặt nó cao hơn lý luận” (Nguyễn Hữu Vui, 1992, tr.172). Khuyết điểm chủ
yếu của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy vật của PhơBách) là sự vật
hiện tượng - cái có thể cảm giác được chỉ được nhận thức là hoạt động cảm giác
của con người, là thực tiễn không được nhận thức về mặt chủ quan.
1.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
Dựa
vào những thành tựu của khoa học nói chung và khoa học tự nhiên nói riêng, cùng
với hoạt động của các ông trong phong trào đấu tranh của quần chúng lao động,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã có công lớn trong việc đưa thực tiễn vào nhận thức luận.
Không những thế cả lý luận và thực tiễn đều được các ông nâng lên trình độ mới:
thực tiễn cách mạng và lý luận cách mạng. Nhờ đó, lý luận gắn bó chặt chẽ với
thực tiễn, trở thành vũ khí nhận thức và cải tạo thế giới. Với việc đưa phạm
trù thực tiễn vào lý luận của mình, C.Mác, Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước
chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và trong nhận thức luận nói
riêng.
Phạm
trù thực tiễn theo triết học Mác-Lênin, thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất
có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã
hội và bản thân con người. Hoạt động của con người bao gồm hoạt động vật chất
và hoạt động tinh thần. Thực tiễn là hoạt động vật chất. Hoạt động vật chất là
những hoạt động mà chủ thể sử dụng phương tiện vật chất tác động vào đối tượng
vật chất nhất định, nhằm cải tạo chúng theo nhu cầu của con người.
Con
người sử dụng các phương tiện để tác động vào đối tượng theo những hình thức và
mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích của con người. Kết quả của quá trình hoạt
động thực tiễn là những sản phẩm thoả mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần
của cá nhân và cộng đồng. Mỗi một hoạt động của con người đều mang tính lịch sử
cụ thể. Nó chỉ diễn ra trong một giai đoạn nhất định nào đó. Nó có quá trình
hình thành, phát triển và kết thúc hoặc chuyển hoá sang giai đoạn khác, không
có hoạt động thực tiễn nào tồn tại vĩnh viễn. Mặt khác, hoạt động thực tiễn chịu
sự chi phối của mỗi giai đoạn lịch sử cả về đối tượng, phương tiện cũng như mục
đích hoạt động. Hoạt động thực tiễn mặc dù phải thông qua từng cá nhân, từng
nhóm người, nhưng không thể tách rời các quan hệ xã hội. Xã hội quy định mục
đích, đối tượng, phương tiện và lực lượng trong hoạt động thực tiễn. Do đó, hoạt
động thực tiễn của con người mang tính xã hội sâu sắc, được thực hiện trong cộng
đồng, do cộng đồng. Hoạt động thực tiễn mang tính tất yếu, nhưng tất yếu có nhận
thức, có ý thức. Đó là ý thức về kết quả, ý thức về phương pháp, ý thức về đối
tượng… đặc biệt là ý thức về mục đích của quá trình hoạt động.
Mục
đích của hoạt động thực tiễn là nhằm thoả mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần
của cá nhân và xã hội. Mỗi một hoạt động đều có mục đích khác nhau để giải quyết
nhu cầu cụ thể, không có hoạt động nào không có mục đích, mặc dù kết quả của hoạt
động thực tiễn không phải là lúc nào cũng diễn ra phù hợp với mục đích của con
người.
Hoạt
động thực tiễn rất phong phú, đa dạng, song có thể chia ra ba hình thức cơ bản
là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực
nghiệm khoa học. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động trực tiếp tác động
vào tự nhiên, cải tạo tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất cho sự tồn tại và
phát triển của xã hội. Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của con người
trực tiếp tác động vào xã hội, cải biến các quan hệ xã hội theo hướng tiến bộ.
Hoạt động thực nghiệm khoa học là hoạt động của các nhà khoa học tác động làm cải
biến những đối tượng nhất định, trong một điều kiện nhất định, theo một mục
đích nghiên cứu nhất định.Trong đó hoạt động sản xuất vật chất đóng vai trò quyết
định vì đó là cơ sở cho các hoạt động khác. Hoạt động sản xuất vật chất là hình
thức cơ bản của thực tiễn vì:
Thứ nhất, về mặt quan hệ là nó là tính thứ nhất và là cái
quyết định đối với ý thức và với tất cả các hình thức hoạt động xã hội - tinh thần
khác của con người.
Thứ
hai, nó là cái quyết định, xét về mặt tiềm năng dù ở bất cứ trình độ nào của nó
đối với tất cả các hoạt động cơ bản của con người như các hoạt động khoa học,
chính trị, tôn giáo, nghệ thuật…
Thứ
ba, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động thực tiễn cảm tính, nó được thực
hiên ở bên ngoài ý thức theo các quy luật khách quan không phụ thuộc vào ý thức.
Hoạt
động chính trị - xã hội bao gồm các quan hệ các giai cấp, dân tộc, nhà nước, hoạt
động của các đảng phái chính trị… các quan hệ chính trị bắt nguồn từ các quan hệ
kinh tế, các nhu cầu, lợi ích kinh tế. Các quan điểm tư tưởng chính trị phản
ánh các nhu cầu, lợi ích kinh tế. Tuy nhiên, không thể từ đó suy ra rằng: Hoạt
động chính trị là hoạt động thực tiễn tư tưởng. Hoạt động chính tri - xã hội là
hình thức hoạt động đặc trưng của con người trong điều kiện xã hội phân chia
thành giai cấp, xã hội phân chia con người thành các nhóm lợi ích khác nhau. Hoạt
động chính trị - xã hội phản ánh cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với lực lượng
chính trị nhằm giành, giữ và bảo vệ quyền lực chính trị - công cụ quan trọng để
bảo vệ lợi ích kinh tế của các giai cấp. Hoạt động chính trị - xã hội là hình
thức bên ngoài của các quá trình vận động kinh tế. Nó có quan hệ biện chứng, phản
ánh mối quan hệ của cơ cở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng. Hoạt động
chính trị có vai trò mở đường nhằm thúc đẩy các quá trình kinh tế - xã hội. Với
ý nghĩa đó, hoạt động chính trị - xã hội gắn liền, chịu sự chi phối của sản xuất
xã hội, đồng thời góp phần tích cực vào quá trình sản xuất - xã hội.
Hoạt
động chính trị - xã hội có ý nghĩa cách mạng thúc đẩy xã hội phát triển. Vì vậy,
triết học Mác coi hoạt động chính trị - xã hội thuộc cấu trúc của phạm trù thực
tiễn. Thực chất, hoạt động chính trị là ở sự làm thay đổi trực tiếp các quan hệ
xã hội hiện thực mà muốn thay đổi các quan hệ xã hội ấy thì phải có những con
người sử dụng những lực lượng thực tiễn. Dạng thứ ba cơ bản của thực tiễn đó là
các hoạt động quan sát thực nghiệm khoa học, nó là dạng thực tiễn đặc biệt, vì
nó không nhằm tạo ra các sản phẩm vật chất nhất định mà nhằm đạt đến các tri thức
khoa học để phục vụ cho hoạt động thực tiễn. Đối với khoa học tự nhiên, nếu coi
thực tiễn chỉ là thực nghiệm trong phòng thí nghiệm thì chưa đủ, bởi thực nghiệm
trong phòng thí nghiệm chỉ tạo ra những điều kiện lý tưởng, giả định của thực
tiễn thuận tiện nhất cho việc nhận thức từng quy luật khách quan, nó chưa thể
bao quát đầy đủ toàn bộ mối liên hệ phổ biến của những điều kiện lịch sử cụ thể
và của sự tác động qua lại với các quy luật khác.
Chỉ
trong hoạt động thực tiễn thì các hoạt động của các quy luật khách quan mới được
biểu hiện thực sự phong phú, sinh động cụ thể. Song, thực nghiệm là một bộ phận
cấu thành không thể thiếu của thực tiễn và rất cần thiết để nhận thức quy luật
khách quan, phát hiện ra bản chất của hiện tượng, không có thực nghiệm khoa học
thì không thể tiến lên được. Có ba loại thực nghiệm: Thực nghiệm trong sản xuất;
trong khoa học tự nhiên và trong xã hội. Các hình thức hoạt động thực tiễn tuy
có sự khác nhau tương đối nhưng chúng thống nhất, có chung chủ thể hoạt động,
có cùng mục đích, chúng hỗ trợ, ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, sự phân biệt giữa
các hình thức hoạt động thực tiễn mang tính tương đối.
Hoạt
động sản xuất vật chất không thể không hoạt động trong cộng đồng xã hội. Mặc dù
hoạt động chính trị - xã hội trực tiếp tác động đến những vấn đề của đời sống
chính trị, tinh thần, nhưng kết quả hoạt động của lĩnh vực này lại tác động
tích cực đến phát triển sản xuất, phát triển kinh tế - xã hội, cũng như những vấn
đề có tính quy luật mà hoạt động thực nghiệm khoa học đang quan tâm. Cũng như vậy,
hoạt động thực nghiệm khoa học không thể không lấy mục đích phục vụ kinh tế -
xã hội. Trong các hình thức hoạt động thực tiễn thì hoạt động sản xuất vật chất
là cơ bản nhất. Mặc dù các hoạt động chính trị - xã hội, hoạt động thực nghiệm
khoa học vẫn diễn ra thường xuyên, quan trọng nhưng hoạt động sản xuất vật chất
tác động sâu sắc, toàn diện đến các hoạt động khác, nó là hoạt động trung tâm,
chủ yếu của con người.
Trên cơ sở những hình thức thực tiễn cơ bản trên còn có một
số lĩnh vực của thực tiễn như hoạt động giáo dục, hoạt động nghệ thuật... cũng
được hình thành. Nó cũng tác động vào quá trình tồn tại và phát triển của xã hội.
Đó là những hình thức thực tiễn phát sinh, hình thức đặc thù của thực tiễn. Phạm
trù lý luận “Lý luận là kinh nghiệm đã được khái quát trong ý thức của con người,
là toàn bộ tri thức về thế giới khách quan, là hệ thống tương đối độc lập của
các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgic của các khái niệm cái lôgic khách
quan của các sự vật” (M.M. Rodentan, 1986, tr.342-343). Nói cách khác, lý luận
là hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn, phản ánh những mối liên
hệ bản chất, những quy luật của các sự vật, hiện tượng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý
luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức
về tự nhiên và xã hội tích trực lại trong quá trình lịch sử” (Hồ Chí Minh,
1996, tr.497).
Để hình thành lý luận, con người phải thông qua quá trình nhận thức kinh nghiệm. Nhận thức kinh nghiệm là quá trình quan sát sự lặp đi lặp lại diễn biến của các sự vật, hiện tượng. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là tri thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm bao gồm tri thức kinh nghiệm thông thường và tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền khoa học) thu được thông qua quá trình sinh hoạt và hoạt động hàng ngày của con người. Nó giúp con người giải quyết nhanh một số vấn đề cụ thể, đơn giản trong quá trình tác động trực tiếp đối tượng. Tri thức kinh nghiệm khoa học là kết quả của quá trình thực nghiệm khoa học. Nó đòi hỏi chủ thể phải tích lũy một lượng tri thức nhất định trong hoạt động sản xuất cũng như hoạt động khoa học mới có thể hình thành tri thức kinh nghiệm khoa học. Tri thức kinh nghiệm khoa học giúp các nhà khoa học hình thành lý luận. Tri thức kinh nghiệm tuy là thành tố của tri thức nhưng ở trình độ thấp. Thế nhưng, nó là cơ sở để hình thành lý luận.
2.1.
NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN
Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn bắt nguồn từ mối
quan hệ giữa con người với thế giới khách quan. Con người luôn luôn tác động
tích cực vào thế giới khách quan - tự nhiên và xã hội, cải biến thế giới khách
quan bằng thực tiễn. Trong quá trình đó, sự phát triển nhận thức của con người
và sự biến đổi thế giới khách quan là hai mặt thống nhất. Điều đó quy định sự
thống nhất biện chứng giữa lý luận với thực tiễn trong hoạt động sinh tồn của
cá nhân và cộng đồng.
Thực
tiễn là cơ sở, là động lực, là mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; lý luận hình
thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn Thực
tiễn là cơ sở của lý luận. Xét một cách trực tiếp, những tri thức được khái
quát thành lý luận là kết quả của quá trình hoạt động thực tiễn của con người.
Thông qua kết quả hoạt động thực tiễn, kể cả thành công cũng như thất bại, con
người phân tích cấu trúc, tính chất và các mối quan hệ của các yếu tố, các điều
kiện trong các hình thức thực tiễn để hình thành lý luận. Quá trình hoạt động
thực tiễn còn là cơ sở để bổ xung và điều chỉnh những lý luận đã được khái quát.
Mặt khác, hoạt động thực tiễn của con người làm nảy sinh những vấn đề mới đỏi hỏi
quá trình nhận thức phải tiếp tục giải quyết. Thông qua đó, lý luận được bổ
xung, mở rộng.
Chính
vì vậy, theo V.I.Lênin, “Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính
tất yếu của nó, trong những quan hệ toàn diện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn
của nó, tự nó và vì nó” (V.I. Lênin, 1981, tr.227). Thực tiễn là động lực của
lý luận. Hoạt động của con người không chỉ là nguồn gốc để hoàn thiện các cá
nhân mà còn góp phần hoàn thiện các mối quan hệ của con người với tự nhiên, với
xã hội. Lý luận được vận dụng làm phương pháp cho hoạt động thực tiễn, mang lại
lợi ích cho con người càng kích thích con người tích cực bám sát thực tiễn để
khái quát lý luận. Quá trình đó diễn ra không ngừng trong sự tồn tại của con
người, làm cho lý luận ngày càng đầy đủ, phong phú và sâu sắc hơn.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Mặc dù lý luận cung cấp
những tri thức khái quát về thế giới để làm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết của con
người nhưng mục đích chủ yếu của lý luận là nâng cao năng lực hoạt động của con
người trước hiện thực khách quan để đưa lại lợi ích cao hơn, thỏa mãn nhu cầu
ngày càng tăng của cá nhân và xã hội. Tự thân lý luận không thể tạo nên những sản
phẩm đáp ứng nhu cầu của con người. Nhu cầu đó chỉ được thực hiện trong hoạt động
thực tiễn. Hoạt động thực tiễn sẽ biển đổi tự nhiên và xã hội theo mục đích của
con người. Đó thực chất là mục đích của lý luận. Tức lý luận phải đáp ứng nhu cầu
hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận.
Tính chân lý của lý luận chính là sự phù hợp của lý luận với hiện thực khách
quan và được thực tiễn kiểm nghiệm, là giá trị phương pháp của lý luận đối với
hoạt động thực tiễn của con người. Do đó, mọi lý luận phải thông qua thực tiễn
để kiểm nghiệm. Chính vì thế mà C.Mác cho rằng: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của
con người có thể đạt đến chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là vấn
đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải
chứng minh chân lý” (Nguyễn Khuê, 1976, tr.10).
Thông qua thực tiễn, những lý luận đạt đến chân lý sẽ được
bổ sung vào kho tàng tri thức nhân loại; những kết luận chưa phù hợp thực tiễn
thì tiếp tục điều chỉnh, bổ sung hoặc nhận thức lại. Giá trị của lý luận nhất
thiết phải được chứng minh trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là tiêu chuẩn
chân lý của lý luận, nhưng không phải mọi thực tiễn đều là tiêu chuẩn của chân
lý. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận khi thực tiễn đạt đến tính toàn
vẹn của nó. Tính toàn vẹn của thực tiễn là thực tiễn đã trải qua quá trình tồn
tại, vận động, phát triển và chuyển hóa. Đó là chu kỳ tất yếu của thực tiễn. Thực
tiễn có nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Nếu lý luận chỉ khái quát một
giai đoạn nào đó, một bộ phận nào đó của thực tiễn thì lý luận có thể xa rời thực
tiễn. Do đó, chỉ những lý luận nào phản ánh được tính toàn vẹn của thực tiễn
thì mới đạt đến chân lý. Chính vì vậy mà V.I.Lênin cho rằng: “Thực tiễn của con
người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần được in vào ý thức của con người bằng
những hình tượng logic. Những hình tượng này có tính vững chắc của một thiên kiến,
có một tính chất công lý, chính vì (và chỉ vì) sự lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu
lần ấy” (V.I. Lênin, 1981, tr.234).
Quá
trình thăng trầm của chủ nghĩa xã hội thế giới cho chúng ta thấy rõ điều đó.
Sau khi giành được chính quyền, những người vô sản tiến hành xây dựng chủ nghĩa
xã hội với cơ chế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp thông qua hai hình thức sở hữu
là toàn dân và tập thể. Tương ứng với hai hình thức sở hữu đó là hai thành phần
kinh tế: quốc doanh và tập thể. Thời kỳ đầu, chủ nghĩa xã hội đã đạt được nhiều
thành tựu rực rỡ. Từ đây, chúng ta cho rằng, cơ chế đó, hai thành phần kinh tế
đó và những lý luận ra đời trên nền tảng ấy vừa khẳng định tính ưu việt của chủ
nghĩa xã hội, vừa khẳng định lý luận xây dựng chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn
khoa khọc. Khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội từ những năm 70 của thế kỷ XX dẫn đến
sụp đổ một loạt nước xã hội chủ nghĩa vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 của
thế kỷ đó chứng tỏ thực tiễn của chủ nghĩa xã hội chưa bộc lộ hết, chưa phát
triển toàn vẹn, nên lý luận chưa phản ánh đúng hiện thực khách quan. Tuy xét đến
cùng, thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý duy nhất của lý luận, nhưng vì thực tiễn
luôn vận động và phát triển, đồng thời, thực tiễn cũng rất phong phú và đa dạng,
do đó ngoài tiêu chuẩn thực tiễn còn có thể có những tiêu chuẩn khác như tiêu
chuẩn logic, tiêu chuẩn giá trị... Song các tiêu chuẩn đó vẫn phải trên nền tảng
của thực tiễn.
Chính
vì vậy, thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý của lý luận. Quá trình phát triển nhận
thức của con người nhất thiết dẫn đến sự hình thành lý luận. Đó không chỉ là sự
tổng kết, khái quát từ lịch sử nhận thức mà còn từ nhu cầu của thực tiễn. Thực
tiễn phong phú, đa dạng, luôn vận động và biến đổi, nhưng để hình thành lý luận,
trước hết lý luận phải đáp ứng thực tiễn. Con người nhận thức hiện thực khách
quan để giải quyết những vấn đề con người quan tâm. Năng lực của con người ngày
càng được nâng cao nhờ khả năng thông qua hoạt động phản ánh, khái quát thành
tri thức lý luận. Trong sự vô cùng, vô tận của hiện thực khách quan, con người
không hề choáng ngợp mà bằng mọi biện pháp để nhận thức theo định hướng mục
đích.
Thông
qua tính mục đích đó mà lý luận được hình thành. Loài người có khả năng trở
thành chủ thể nhận thức để phản ánh sự vô tận của hiện thực khách quan, nhưng để
đáp ứng hoạt động thực tiễn, con người tích lũy lý luận, mà trước hết là những
lý luận phù hợp với nhu cầu hoạt động thực tiễn của con người. Đó là những lý
luận mang tính phương pháp cho hoạt động cải tạo hiện thực khách quan. Mọi hoạt
động của con người đều nhằm đạt hiệu quả cao. Lý luận, trước hết phải đáp ứng mục
đích đó. Quan hệ giữa người với người, giữa người với tự nhiên đỏi hỏi con người
phải có lý luận sâu sắc về chúng. Con người hình thành lý luận chủ yếu để làm
phương pháp cho hoạt động trong đó có hoạt động sáng tạo trí thức; phát minh,
sáng chế những tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt nhằm nâng cao năng lực sáng
tạo của con người, do đó, hệ thống lý luận nào góp phần giải quyết đúng đắn,
phù hợp với mục đích của con người thì được con người quan tâm khái quát. Vì lẽ
đó, lý luận phải đáp ứng nhu cầu phát triển của thực tiễn.
Thực
tiễn phải được chỉ đạo bởi lý luận, ngược lại lý luận phải được vận dụng vào thực
tiễn, tiếp tục bổ sung và phát triển trong thực tiễn. Theo C.Mác, người thợ xây
không bao giờ tinh xảo như con ong xây tổ, nhưng người thợ xây hơn hẳn con ong ở
chỗ, trước khi xây dựng một công trình, họ đã hình thành được hình tượng của
công trình ấy trong đầu họ. Tức là, hoạt động của con người là hoạt động có ý
thức. Ban đầu, hoạt động của con người chưa có lý luận chỉ đạo, song con người
phải hoạt động để đáp ứng nhu cầu tồn tại của mình. Thông qua đó, con người
khái quát thành lý luận. Từ đó, những hoạt động thực tiễn của con người mới trở
thành tự giác, có hiệu quả và đạt được mục đích mong muốn. Lý luận đóng vai trò
soi đường cho thực tiễn, vì lý luận có khả năng định hướng mục tiêu, xác định lực
lượng, phương pháp, biện pháp thực hiện. Lý luận còn dự báo được khả năng phát
triển cũng như các mối quan hệ của thực tiễn, dự báo được những rủi ro có thể xảy
ra, những hạn chế, những thất bại có thể có trong quá trình hoạt động.
Như vậy, lý luận không chỉ giúp con người hoạt động hiệu
quả mà còn là cơ sở để khắc phục những hạn chế và tăng năng lực hoạt động của
con người. Mặt khác, lý luận còn có vai trò giác ngộ mục tiêu, lý tưởng, liên kết
các cá nhân thành cộng đồng, tạo thành sức mạnh vô cùng to lớn của quần chúng
trong cải tạo tự nhiên và cải tạo xã hội. Chính vì vậy, C.Mác đã cho rằng: “Vũ
khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận
cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” (C.
Mác, 1980, tr.580).
Mặc
dù lý luận mang tính khái quát cao, song, nó còn có tính lịch sử, cụ thể. Do
đó, khi vận dụng lý luận, chúng ta cần phân tích một cách cụ thể mỗi tình hình
cụ thể. Nếu vận dụng lý luận máy móc, giáo điều, kinh viện thì chẳng những hiểu
sai giá trị của lý luận mà còn làm phương hại đến thực tiễn, làm sai lệch sự thống
nhất tất yếu giữa lý luận và thực tiễn. Lý luận hình thành là kết quả của quá
trình nhận thức lâu dài và khó khăn của con người trên cơ sở hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn tuy phong phú, đa dạng nhưng không phải không có tính quy
luật. Tính quy luật của thực tiễn được khái quát dưới hình thức lý luận. Mục
đích của lý luận không chỉ có phương pháp mà còn định hướng cho hoạt động thực
tiễn. Đó là định hướng mục tiêu, biện pháp sử dụng lực lượng, định hướng giải
quyết các mối quan hệ trong hoạt động thực tiễn. Không những thế, lý luận còn định
hướng mô hình của hoạt động thực tiễn.
Vận dụng lý luận vào hoạt động thực tiễn, trước hết, từ
lý luận để xây dựng mô hình thực tiễn theo những mục đích khác nhau của quá
trình hoạt động, dự báo các diễn biến, các mối quan hệ, lực lượng tiến hành và
những phát sinh của nó trong quá trình phát triển để phát huy các nhân tố tích
cực, hạn chế những yếu tố tiêu cực nhằm đạt kết quả cao hơn. Lý luận tuy là
lôgic của thực tiễn, song lý luận có thể lạc hậu so với thực tiễn. Vận dụng lý
luận vào thực tiễn đòi hỏi chúng ta phải bám sát diễn biến của thực tiễn để kịp
thời điều chỉnh, bổ sung những khiếm khuyết của lý luận, hoặc có thể thay đổi
lý luận cho phù hợp với thực tiễn. Khi vận dụng lý luận vào thực tiễn, chúng có
thể mang lại hiệu quả hoặc có thể không, hoặc kết quả chưa rõ ràng. Trong trường
hợp đó, giá trị của lý luận phải do thực tiễn quy định. Tính năng động của lý
luận chính là điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn. V.I.Lênin nhận xét rằng: Thực
tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến,
mà cả của tính hiện thực trực tiếp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét