Cách đây hơn 100 năm, C.Mác đã dự đoán: “Đến một trình độ phát triển nào đó thì “tri thức xã hội phổ biến” (khoa học) biến thành “lực lượng sản xuất trực tiếp””. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, luận điểm đó của C.Mác đang dần trở thành hiện thực một cách đầy thuyết phục.
1-
Những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Khoa học và cùng với khoa học là
công nghệ là những thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Tri thức khoa học được
vật hóa thành công cụ sản xuất (công cụ lao động), như máy móc, trang thiết bị
kỹ thuật…, đó là yếu tố động nhất và có vai trò quyết định đối với phương thức
sản xuất. Trong quan hệ sản xuất, tri thức khoa học có mặt trong khoa học quản
lý, tổ chức và phân phối. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử xã hội nói
chung, của phương thức sản xuất nói riêng, vai trò của khoa học và công nghệ
cũng ngày càng được nâng cao, ngày càng thể hiện rõ ràng dưới dạng một thực tiễn
xã hội trực tiếp nhờ vào quá trình không ngừng biến đổi và hoàn thiện dần của
chúng. Từ chỗ là lực lượng sản xuất tiềm năng, ngày nay, khoa học và công nghệ
đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bước chuyển này không phải là ngẫu
nhiên, mà chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện nhất định hay “một trình độ
phát triển nào đó” như C.Mác đã dự đoán. Vậy, những điều kiện đó là gì?
Điều
kiện đầu tiên phải
thuộc về sản xuất: nền sản xuất xã hội phải đạt đến một trình độ phát triển
cao, tạo cơ hội và địa bàn để khoa học và công nghệ phát huy vai trò là lực lượng
sản xuất trực tiếp của mình.
Trong những nền sản xuất xã hội còn
ở trình độ phát triển thấp trước đây, khoa học không thể trực tiếp đi vào sản
xuất, mà phải trải qua khâu trung gian thực nghiệm khoa học, nhiều khi kéo dài
hàng trăm năm. Tri thức khoa học phải thông qua một quá trình thực nghiệm khoa
học lâu dài, phức tạp, con người mới tìm ra cách vận dụng những thành tựu thu
được qua thực nghiệm đó vào sản xuất. Quá trình này thường diễn ra rất chậm chạp.
Trong điều kiện như vậy, khoa học chỉ có thể biểu thị như một lực lượng sản xuất
tiềm năng, chứ chưa thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Ngày nay, khi sản xuất xã hội đã đạt
đến trình độ phát triển cao, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển, chính sản
xuất lại đặt ra những vấn đề mới, phức tạp, đòi hỏi khoa học phải có phương thức
giải quyết phù hợp, kịp thời nhằm thúc đẩy sản xuất tiếp tục phát triển và qua
đó, khoa học cũng phát triển theo. Như vậy, trong điều kiện xã hội ngày nay, sản
xuất đã tạo ra những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng, những nhu cầu cấp
thiết cho sự xuất hiện những tri thức khoa học mới, những ngành khoa học mới. Đến
lượt mình, những tri thức khoa học mới lại được nhanh chóng vật hóa để trở
thành công cụ sản xuất mới và trực tiếp tham gia vào các quá trình sản xuất. Ở
đây, khoa học không phục vụ sản xuất một cách thụ động, mà tham gia một cách
tích cực, chủ động và trở thành một yếu tố không thể thiếu được của lực lượng sản
xuất nói riêng, của quá trình sản xuất xã hội nói chung. Do vậy, chỉ có đến lúc
này, khoa học mới có đầy đủ điều kiện để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều
kiện thứ hai thuộc
về sự phát triển của bản thân khoa học: khoa học phải đạt đến một trình độ phát
triển cao đến mức đủ sức giải quyết những vấn đề cấp thiết do thực tiễn xã hội,
đặc biệt là những vấn đề do thực tiễn sản xuất trực tiếp đặt ra.
Trong nền khoa học hiện đại, không
một vấn đề nào do sản xuất đặt ra mà tri thức của một ngành khoa học, thậm chí
là của vài ngành khoa học cụ thể, có thể tự thân giải quyết được hoàn toàn. Bởi
vậy, ngày nay, sự thống hợp khoa học, tổng hợp tri thức khoa học là xu hướng
phát triển tất yếu của khoa học và điều này cũng hoàn toàn phù hợp với nhu cầu
của thực tiễn sản xuất hiện đại. Trong thời đại ngày nay, trong khoa học đang
diễn ra quá trình tương tác mạnh mẽ giữa các khoa học, quá trình liên kết khoa
học theo hướng tổng hợp tri thức của các khoa học hiện đại nhằm giải quyết những
vấn đề bức xúc do thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội đặt ra, như vấn đề
khai thác và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường
sống, vấn đề phát triển bền vững, vấn đề hội nhập toàn cầu mà trước hết, là hội
nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là những vấn đề về con người (tăng cường sức khỏe,
phòng, chống bệnh tật, nâng cao tuổi thọ, và sự phát triển toàn diện cả về thể
chất lẫn tinh thần của con người…). Bởi thế, sự phát triển của khoa học nói
riêng, xã hội nói chung đều nhằm mục đích thỏa mãn những nhu cầu ngày càng cao
của con người, phục vụ cho sự phát triển toàn diện của con người với tư cách một
thực thể sinh học - xã hội, một thực thể sống hài hòa giữa môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội. Những khám phá mới của khoa học về con người, như làm rõ
nguồn gốc và bản chất của con người, lập và giải mã bản đồ gien người, nhân bản
vô tính người, làm rõ vai trò và chức năng của tế bào gốc ở người, trí tuệ nhân
tạo, những khả năng còn tiềm ẩn ở con người, v.v. đang chứng tỏ rằng, con người
không chỉ là chủ thể sáng tạo khoa học, chủ thể của quá trình sản xuất xã hội,
của lịch sử, mà còn là đối tượng khai thác của khoa học và công nghệ hiện đại.
Rõ ràng là, ngày nay, khoa học đang
tiến rất gần đến mục tiêu như C.Mác đã tiên đoán: “Khoa học tự nhiên bao hàm
trong nó khoa học về con người cũng như khoa học về con người bao hàm trong nó
khoa học tự nhiên: đó sẽ là một khoa học”. Với trình độ phát triển cao như hiện
nay, khoa học hoàn toàn có thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều
kiện thứ ba để
khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp là sự phát triển kinh tế - xã
hội ở mỗi nước, nhất là ở các nước công nghiệp phát triển; là xu thế toàn cầu
hóa, trước hết là toàn cầu hóa kinh tế trên cái nền của cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại, đặc biệt là cách mạng công nghệ thông tin. Nhờ sự phát
triển của công nghệ hiện đại, mà chủ đạo là công nghệ thông tin, những phát
minh, những thành tựu mới của khoa học không còn là sở hữu riêng, độc quyền của
các nhà khoa học hay của các nước có những phát minh đó; chúng đã nhanh chóng
lan tỏa đi khắp thế giới và được ứng dụng kịp thời vào quá trình sản xuất xã hội
ở nhiều nước khác nhau, bằng nhiều cách thức khác nhau, như chuyển giao công
nghệ, nhượng quyền sử dụng, mua bán phát minh, sáng chế, thông qua các công ty
liên quốc gia, v.v.. Trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay, WTO (Tổ
chức Thương mại thế giới) đang giữ vai trò rất quan trọng. Chính sự liên minh,
liên kết toàn cầu về kinh tế này đã tạo địa bàn, tạo cơ hội thuận lợi thúc đẩy
khoa học nhanh chóng đi vào sản xuất, trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Điều
kiện thứ tư để
khoa học biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp đó chính là sự thấm nhuần sâu
sắc, dù dưới hình thức tự giác hay tự phát, nguyên lý triết học mácxít về sự thống
nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, mà nếu ứng dụng vào quá trình sản xuất
vật chất thì đó là sự thống nhất giữa hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động
khoa học. Theo nguyên lý về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, thực tiễn
sản xuất xã hội vừa là nguồn gốc, động lực, mục tiêu của nhận thức khoa học, vừa
là tiêu chuẩn của chân lý. Thực tiễn sản xuất xã hội kiểm nghiệm tính đúng đắn
của tri thức khoa học. Do vậy, việc khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp là con đường ngắn nhất, đáng tin cậy nhất để xác định độ chính xác, tính
khoa học, tính chân lý của tri thức khoa học. Sự thống nhất giữa thực tiễn (hoạt
động sản xuất xã hội) và lý luận (tri thức khoa học) là đặc trưng cơ bản của xã
hội hiện đại, được xây dựng trên cơ sở của nền sản xuất hiện đại và nền khoa học
tiên tiến.
Như vậy, cùng với sự phát triển của
xã hội, vai trò của khoa học ngày càng được tăng cường, nhất là trong thời đại
ngày nay, khi khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Tri thức
khoa học vừa là sự biến đổi, là quyền lực, là sự giàu có, thịnh vượng, vừa là một
trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển, sự thịnh suy của một
công ty, một dân tộc, một đất nước, một khu vực trong cuộc cạnh tranh khốc liệt
về kinh tế của thế giới hiện đại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét