Post Top Ad

Your Ad Spot

Thứ Hai, 19 tháng 4, 2021

MỘT SỐ ĐẠI BIỂU CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CHÍNH TRỊ

 MỘT SỐ ĐẠI BIỂU CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁI 

KINH TẾ CHÍNH TRỊ 



Một số nhà tư tưởng kinh tế thời kỳ cổ đại

Tư tưởng kinh tế đã có từ thời Cổ đại nhưng trong thời kỳ này các tư tưởng đó chưa đủ để tạo nên sự chín muồi dẫn đến sự ra đời của kinh tế chính trị.

Những tư tưởng kinh tế thường lồng ghép với các tư tưởng khác như triết học, tôn giáo, chính trị… chứ chưa có sự tồn tại độc lập:

-   Ở phương Tây cổ đại: Xenophon (430 – 345 TCN); Platon (427 – 347 TCN); Aristoteles (348 – 322 TCN); Carton (234 – 149 TCN); Granky Tibery (163 – 132 TCN) …

-  Ở phương Đông cổ đại: Khổng Tử (552 – 479 TCN); Lão Tử; …

-   Thời Trung cổ: Augustin Siant (354 – 450); Thomas d’Aquin (1225 – 1274); …

Trường phái trọng thương (Từ thế kỷ XV – cuối thế kỷ XVII)

Giai đoạn đầu tiên với các đại biểu:

-  William Staffod (1554 – 1612) nhà kinh tế học người Anh, Quan điểm Trọng thương của ông thể hiện rõ nhất trong tác phẩm “Trình bày tóm tắt những lời kêu ca của đồng bào chúng ta” (1581).

-  Gasparo Scaruffi (1519 - 1584) nhà kinh tế học người Ý…

ð Giai đoạn thứ nhất với lý thuyết cân đối tiền tệ, chủ trương tăng sở hữu tiền như một dạng của cải thông qua luật định. Chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này còn được gọi là chủ nghĩa trọng kim.

Giai đoạn sau phát triển mạnh mẽ ở thế kỷ 17 với những người đại diện:

-  Thomas Mun (1571 - 1641) là nhà kinh tế học người Anh, giám đốc của công ty Đông Ấn. Tác phẩm nổi tiếng: “Bàn về buôn bán giữa Anh và Đông Ấn” (1622); “Sự giàu có của nước Anh và mậu dịch đối ngọai” (1630) - tác phẩm này được C. Mác gọi là “Kinh thánh của chủ nghĩa Trọng thương”, trong đó ông coi ngoại thương là công cụ bình thường và tốt nhất để nước nhà trở nên giàu có và tích lũy tiền tệ.

-  Antoine de Montchrétien (1576 - 1621) nhà kinh tế học người Pháp với tác phẩm nổi tiếng “Chuyên luận về kinh tế chính trị” (1615) đã lần đầu tiên nêu lên thuật ngữ Kinh tế chính trị.

-  Jean Baptiste Colbert (1619 – 1683) là bộ trưởng tài chính của Pháp từ 1665 đến 1683 dưới thời Louis XIV. Colbert cũng được coi là một gương mặt nổi bật của chủ nghĩa trọng thương. Ông đề ra chính sách thực hiện ở Pháp trong 100 năm gọi là chủ nghĩa Colbert với nội dung:

+ Chủ trương phát triển công nghiệp, trợ cấp tiền cho công nghiệp, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm công nghiệp.

+ Thi hành hàng loạt biệp pháp chính, chính sách tàn phá nông nghiệp (hà khắc nông nghiệp): tăng thuế nông nghiệp, tăng giá vật tư nông nghiệp, phong tỏa thị trường nông sản làm khủng hoảng nông nghiệp, phá sản kinh tế nông dân.

ð Giai đoạn hai với luận thuyết cân đối thương mại chủ động. Chủ nghĩa trọng thương giai đoạn này còn được gọi là chủ nghĩa thặng dư thương mại.

Tuy những nhà hoạt động kinh tế nói trên sống ở các nước khác nhau và không có sự trao đổi gì với nhau nhưng họ đã có những quan điểm trùng hợp. Trường phái này không chỉ biểu hiện qua lý thuyết, mà còn là một phần của truyền thống văn hóa - chính trị.

Chủ nghĩa trọng thương bắt đầu thoái trào từ thế kỷ 18. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa trọng thương không thể đáp lại một cách thuyết phục trước những phê phán đối với chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch. Chủ nghĩa trọng nông có cơ sở chính ở Pháp là những tư tưởng kinh tế đầu tiên cố gắng phủ nhận chủ nghĩa trọng thương.

Cho đến khi kinh tế học cổ điển hình thành rõ ràng nhờ Adam Smith, thì chủ nghĩa trọng thương kết thúc, về mặt lý luận. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nó tới chính sách kinh tế của các nhà nước thì vẫn còn tiếp tục, thậm chí cho đến tận thế kỷ 20.

Trường phái trọng nông (Từ giữa thế kỷ XVII – nửa đầu thế kỷ XVIII)

Lý thuyết trọng tâm của trường phái trọng nông là sản phẩm thuần túy (sản phẩm ròng) – số chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất và nó chỉ được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp.

Boisguillerbert (1646 – 1714) nhà kinh tế học người Pháp. Boisguillebert cho rằng sự giàu có của quốc gia phụ thuộc vào sự thịnh vượng của nông nghiệp. Ông là một người theo chủ nghĩa bảo hộ nông nghiệp, nhưng niềm tin vào trật tự tự nhiên của các mối quan hệ kinh tế và xã hội; Trong cải cách tài khóa, ông ủng hộ thuế trực tiếp thay vì gián thu.

Francois Quesney (1694 – 1774) là nhà kinh tế học người Pháp và là người đứng đầu khuynh hướng trọng nông. Một số quan điểm kinh tế chính của ông:

+ Lý thuyết lao động sản xuất (tức là lao động sinh lời) và lao động không sinh lời.

+ Lý thuyết giai cấp: Ông chia xã hội thành 3 giai cấp: GC sản xuất ra sản phẩm thuần túy; GC không sản xuất và GC sở hữu (những người chủ ruộng).

+ Lý thuyết về quyền tự nhiên: Quyền tự nhiên được thừa nhận bằng ánh sáng của trí tuệ; còn quyền luật pháp được thừa nhận bằng bộ luật, theo ông, bộ luật sẽ có giới hạn.

+ Lý thuyết về tư bản: Nếu chủ nghĩa trọng thương coi tiền là tư bản thì ông xem tư bản là những tư liệu sản xuất mua được bằng tiền.

+ Tác phẩm “Biểu kinh tế” là một tác phẩm lớn của ông, trình bày quan điểm về sự vận động của sản phẩm và tiền tệ trải qua 5 hành vi.

Anne Robert Jacque Turgot (1727 – 1781) là nhà kinh tế học người Pháp, nhà cải cách, và là một trong những đại diện của khuynh hướng trọng nông. Một số quan điểm kinh tế chính của ông:

+ Lý thuyết tiền tệ về số lượng, nghĩa là tiền ở bất cứ dạng nào đều giảm giá trị nếu tăng số lượng của chúng lên.

+ Lý thuyết giá trị: A. Turgot giữ quan điểm: nguồn gốc giá trị xuất phát từ chi phí sức lao động và lao động đã kết tinh (lao động quá khứ). Ông cũng đề cập đến tính quý hiếm của hàng hóa và cho rằng đó cũng là một yếu tố định giá.

+ Lý thuyết giai cấp: Trên cơ sở lý thuyết giai cấp của Quesney, Turgot phát triển tiếp tục thành 5 giai cấp: gc các nhà tư bản sản xuất; gc công nhân sản xuất; gc các nhà tư bản không sản xuất; gc công nhân không sản xuất và giai cấp sở hữu.

+ Lý thuyết tiền lương và lợi nhuận: về tiền lương, ông cho rằng tiền công là kết quả của người bán lao động của mình cho người khác, và tiền công "giới hạn bằng một lượng tối thiểu cần thiết để người lao động tồn tại, như là để đảm bảo cuộc sống"; về lợi nhuận, dù vẫn ủng hộ quan điểm thuần túy trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng ông đã đặt cơ sở phân tích lợi nhuận trong công nghiệp, ngoài ra ông còn quan tâm đến lợi nhuận bình quân và xu hướng giảm tỷ xuất lợi nhuận.

Kinh tế chính trị cổ điển Anh (Từ giữa thế kỷ XVII – cuối thế kỷ XVIII)

William Petty (1623 – 1687) – nhà kinh tế học, tiến sĩ Vật lý học người Anh và là người đặt nền móng cho trường phái Kinh tế chính trị cổ điển ở Anh, tác phẩm nghiên cứu của ông được xuất bản trong những năm 60-80 thế kỷ 17. K. Marx đánh giá ông là "cha đẻ của Kinh tế chính trị, nhà kinh tế học kiệt xuất và đặc sắc".

-       Những tác phẩm của ông được biết đến là "Luận bàn về thuế và các khoản thu" (1662), "Giải phẫu học chính trị Ireland" (1672), "Điều khác về tiền tệ" (1682). Trong các tác phẩm đó tư tưởng xuyên suốt là không công nhận đường lối bảo hộ mậu dịch của chủ nghĩa trọng thương.

-       Một số quan điểm kinh tế chính của ông:

+ Lý thuyết về sự giàu có và tiền tệ

+ Lý thuyết tiền tệ

+ Lý thuyết về tiền lương

+ Lý thuyết về địa tô, lợi tức và giá cả ruộng đất.

Adam Smith (1723 - 1790) –  nhà kinh tế học người Anh và là cha đẻ của kinh tế chính trị học. Ông được biết đến với quan điểm “Bày tay vô hình” – tư tưởng về “trật tự tự nhiên” của nền kinh tế, không cần sự can thiệp của nhà nước.

-  Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Nghiên cứu về bản chất và nguyên nhân sự giàu có của các dân tộc” viết năm 1776.

-  Một số quan điểm kinh tế chủ yếu của ông:

+ Lý thuyết về phân công lao động, trao đổi và tiền tệ

+ Lý thuyết về giá trị lao động

+ Lý thuyết về giai cấp và thu nhập

+ Lý thuyết về tư bản

+ Lý thuyết tái sản xuất và “tín điều”

David Ricardo (1772 – 1823) nhà kinh tế học người Anh.

-  Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học” viết năm 1817.

-  Lý thuyết kinh tế chính của ông:

+ Lý thuyết về giá trị - lao động

+ Lý thuyết về tiền lương, lợi nhuận và địa tô

+ Lý thuyết về tư bản

+ Lý thuyết về tín dụng và tiền tệ

+ Lý thuyết thực hiện và khủng hoảng kinh tế

+ Lý thuyết về thuế khóa

Kinh tế chính trị Mác – Lênin (Từ những năm 40 của thế kỷ XIX – nay)

C. Mác (1818 – 1883) nhà triết học, nhà lý luận người Đức. Nhà sáng lập chủ nghĩa Mác và là lãnh tụ của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản

Ph. Ăngghen (1820 – 1895) nhà triết học, nhà lý luận người Đức. Nhà sáng lập chủ nghĩa Mác và là lãnh tụ của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.

V.I. Lênin (1870 – 1924) nhà triết học, nhà lý luận người Nga. Người kế thừa, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác thành Chủ nghĩa Mác - Lênin và là lãnh tụ của phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản.

Một số nhà kinh tế học hiện đại

Keynes (1883 – 1946) là một nhà kinh tế học người Anh.

-  Những ý tưởng của ông, hình thành nên Kinh tế học Keynes (Những nhà kinh tế lấy quan điểm của Keynes làm cơ sở, nền tảng tư tưởng), có ảnh hưởng lớn tới kinh tế học hiện đại và chính trị cũng như các chính sách tài chính của nhiều chính phủ.

-  Ông ủng hộ cho sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế, bởi nhờ đó chính phủ sẽ sử dụng chính sách tài chính và chính sách tiền tệ để điều chỉnh tổng cầu do đó làm giảm nhẹ những ảnh hưởng bất lợi do suy thoái kinh tế hay bùng nổ kinh tế gây ra.

-  Ông là người khai sinh kinh tế học vĩ mô hiện đại và là nhà kinh tế có ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Keynes có vai trò rất lớn trong việc giảm những ảnh hưởng bất lợi do cuộc Đại khủng hoảng (1929-1933) gây ra.

-  Keynes đã tạo tiền đề căn bản cho sự ra đời của kinh tế học vĩ mô hiện đại nhờ vào sự tìm hiểu vai trò của tổng cầu.

-  Thuyết Keynes đã đưa ra một số nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế. Mối quan hệ vòng tròn giữa chi tiêu và thu nhập (tổng cầu), tiết kiệm, tỷ lệ thất nghiệp.

-  Tác phẩm nổi tiếng: Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ viết vào năm 1936.

Samuelson (1915 – 2009) là một nhà kinh tế học người Mỹ, đại biểu của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp và có đóng góp to lớn ở một loạt lĩnh vực của kinh tế học.

Ông là người Mỹ đầu tiên nhận được Giải Nobel Kinh tế (1970). Sử gia kinh tế Randall E. Parker gọi ông là "Cha đẻ của kinh tế hiện đại", và tờ The New York Times đã coi ông là "nhà kinh tế học hàng đầu của thế kỷ 20".

-  Tác phẩm nổi tiếng: Cơ sở của phân tích kinh tế (1917); Kinh tế học (1948)…

-  Những đóng góp chủ yếu:

+ Theo nhận xét của Kenneth Arrow, Samuelson là người sáng lập trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp, kết hợp kinh tế học vĩ mô cổ điển với kinh tế học Keynes. Ông đã góp phần to lớn để phát triển phương pháp phân tích cân bằng tổng thể trong kinh tế học.

+ Trong kinh tế học phúc lợi, ông đã góp phần đưa ra lý luận Điều kiện Lindahl-Bowen-Samuelson (tiêu chí để xác định xem một hành động của một chủ thể kinh tế có làm tăng phúc lợi hay không), góp phần đưa ra hàm xác suất trong phúc lợi xã hội (hay hàm phúc lợi xã hội Bergson-Samuelson).

+ Trong lý thuyết tài chính công, ông có đóng góp vào lý thuyết quyết định sự phân bổ tối ưu nguồn lực trong điều kiện tồn tại cả hàng hóa công cộng lẫn hàng hóa tư nhân.

+ Trong lĩnh vực kinh tế học quốc tế, ông góp phần xây dựng hai mô hình thương mại quốc tế quan trọng: Hiệu ứng Balassa-Samuelson, và Mô hình Heckscher-Ohlin (với định lý Stolper-Samuelson).

+ Trong lĩnh vực kinh tế học vĩ mô, ông sử dụng mô hình OLG như một cách để phân tích hành vi của các chủ thể kinh tế qua nhiều thời kỳ.

+ Trong lĩnh vực kinh tế học vi mô, ông là người tiên phong trong phát triển lý thuyết sở thích được bộc lộ.
---
Lê Chí Nhân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Top Ad

Your Ad Spot