Post Top Ad

Your Ad Spot

Thứ Ba, 27 tháng 4, 2021

ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY HIỆN ĐẠI

        

        Đến giữa thế kỷ XIX, với việc giai cấp tư sản nhiều nước Châu Âu lần lượt giành được chính quyền, triết học cận đại cũng hoàn thành sứ mệnh lịch sử của nó trong cách mạng tư sản. Từ sau đó, triết học này đã dần xa rời truyền thống duy vật và biện chứng của triết học Anh, Pháp, Đức, trong các thế kỷ XVII, XVIII, XIX. Nó chuyển hướng sang chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình nên không còn đưa ra được một thế giới quan tích cực, giàu sức sống như nó đã từng thể hiện trong mấy thế kỷ trước. Từ đầu thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, triết học phương Tây hiện đại không ngừng phân hóa thành nhiều trường phái, nhưng xoay quanh hai trào lưu chủ yếu, đó là chủ nghĩa duy khoa học và chủ nghĩa nhân bản phi duy lý.

Vì sao có sự chuyển hướng đó trong triết học tư sản hiện đại?

Ở thời kỳ chủ nghĩa tư bản đi lên, chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo đã từng là hai vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến và thần học và chủ nghĩa kinh viện. Lúc đó, giai cấp tư sản tôn sùng lý tính, đề cao khoa học và chủ nghĩa nhân đạo để dùng chúng chống lại tôn giáo và chế độ chuyên chế phong kiến. Trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản nhằm xác lập và phát triển chủ nghĩa tư bản, thì chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân đạo thống nhất với nhau và đã có vai trò lịch sử tiến bộ.

Sau khi giành được chính quyền, giai cấp tư sản buộc phải đối phó với những lực lượng xã hội mới và các mâu thuẫn xã hội mới ngày càng bộc lộ gay gắt. Họ không còn nhu cầu chống lại thần học, tôn giáo như trước đây. Nhưng để phát triển sức sản xuất, củng cố sự thống trị của bản thân họ, giai cấp tư sản cần phát triển khoa học kỹ thuật. Vì vậy, giai cấp này tìm cách điều hoà mâu thuẫn giữa khoa học và tôn giáo. Dưới chế độ tư bản, tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sản xuất phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn không đưa lại “tự do, bình đẳng, bác ái”. Trái lại, nó còn dẫn đến các cuộc khủng hoảng xã hội, khủng hoảng tinh thần, khủng hoảng sinh thái ngày càng sâu sắc, đẩy con người vào tình trạng tha hoá toàn diện ngày càng nặng nề hơn.

Trong điều kiện lịch sử đó, trong triết học phương Tây đã diễn ra sự tách biệt và sự đối lập giữa chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa nhân bản. Để phát triển sản xuất, gia tăng lợi nhuận, giai cấp tư sản cần đến khoa học, nhưng lại lý giải khoa học một cách duy tâm, do đó đã hình thành trào lưu triết học duy khoa học theo lập trường duy tâm đẩy mâu thuẫn trong vấn đề con người và xã hội, giai cấp tư sản không muốn thừa nhận các quy luật khách quan của sự phát triển nên họ đề cao chủ nghĩa phi duy lý. Do đó đã hình thành trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý. Trào lưu duy khoa học và trào lưu phi duy lý dường như đối lập nhau, nhưng trên thực tế lại bổ sung nhau, vì chúng đều cần thiết cho sự ổn định và phát triển của xã hội tư bản, đều là phản ánh mâu thuẫn trong lòng chủ nghĩa tư bản hiện đại. Với hoàn cảnh ra đời và phát triển trên, triết học Phương Tây hiện đại có những đặc điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục có ý đồ vượt lên trên sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm

Trào lưu chủ nghĩa duy khoa học nhấn mạnh việc chống "siêu hình", trào lưu chủ nghĩa nhân bản nhấn mạnh việc chống "nhất nguyên luận", đều là nhằm phủ nhận vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại là vấn đề cơ bản của triết học. Trong khi đó họ lại coi những vấn đề như: lôgíc khoa học, phương pháp luận khoa học, ý nghĩa kết cấu của ngôn ngữ, vấn đề quan hệ giữa ngôn ngữ và tư duy, cả những vấn đề tình cảm, ý chí của con người, v.v.. mới là những vấn đề trung tâm của triết học. Họ tuyên bố chống cả chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, triết học của họ là "toàn diện nhất", "công bằng nhất", "mới nhất". Trên thực tế bằng cách này hay cách khác họ vẫn không tránh khỏi giải đáp một cách duy tâm về vấn đề cơ bản của triết học* Các trường phái chủ nghĩa duy khoa học đã kế thừa chủ nghĩa hiện tượng và chủ nghĩa bất khả tri của triết học Hium và Cantơ cho rằng mọi tri thức chỉ bắt nguồn từ kinh nghiệm mà không thừa nhận nội dung khách quan của kinh nghiệm. Họ tách rời kinh nghiệm với thực tại khách quan được kinh nghiệm phản ánh, tách rời hiện tượng với bản chất. Họ phủ nhận việc con người có thể nhận thức được thực tại khách quan, và chỉ giới hạn sự nhận thức của con người trong phạm vi hiện tượng. Họ cho rằng mọi khái niệm và lý luận khoa học đều chỉ là giả thiết tiện lợi, do chủ quan hư cấu, đều chỉ là công cụ của con người, không có tính khách quan.

Trào lưu nhân bản chủ nghĩa, mặc dù lấy con người làm trung tâm của sự phân tích triết học, nhưng một khi đã coi những thuộc tính tình thần của cá nhân như ý chí, tình cảm, vô thức, bản năng.v.v.. là bản chất của con người và là nguồn gốc của thế giới thì hiển nhiên cũng là duy tâm. Chủ nghĩa nhân bản phi duy lý cũng trực tiếp phủ nhận việc con người có thể nhận thức được quy luật khách quan bằng lý tính, cho rằng lý trí chỉ đạt đến hiện tượng còn trực giác thần bí mới đạt đến bản chất. Đó là khuynh hướng bất khả tri.

Tuy nhiên, cả hai trào lưu lớn trong triết học phương Tây hiện đại đã coi trọng nghiên cứu nhiều vấn đề mới về con người; đã khái quát về mặt triết học một số thành quả của khoa học tự nhiên, và có những khám phá có giá trị nhất định đối với quá trình nhận thức khoa học. Chúng ta có thể kế thừa có chọn lọc, có phê phán những thành quả đó.

Tính chất duy tâm của triết học phương Tây hiện đại càng thể hiện rõ rệt hơn trong triết học lịch sử và trong xã hội học của nó. Điều đó thể hiện ở chỗ các trường phái thuộc hai trào lưu lớn đều phủ định tính quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Trào lưu chủ nghĩa duy khoa học duy tâm dừng lại ở cảm giác và kinh nghiệm hoặc giải thích duy tâm đối với các quy luật xã hội, đã phủ nhận tính khách quan của các quy luật đó.

Ở các nhà triết học thuộc trào lưu nhân bản chủ nghĩa phi duy lý thì tính quy luật khách quan của sự phát triển xã hội còn bị phủ định triệt để hơn.

Đương nhiên, trong tư tưởng và luận điểm của một số nhà triết học phương Tây hiện đại cũng có nhân tố và khuynh hướng duy vật. Nhưng điều đó không hề làm thay đổi tình hình cơ bản nói trên.

Thứ hai, xa rời phép biện chứng

Giai cấp tư sản từ lâu đã mất đi bản chất cách mạng nên không thể tiếp thu phép biện chứng duy vật. Trước thế kỷ XX triết học tư sản thường thông qua việc giải thích sai lệch phép biện chứng của Hêghen để chống lại phép biện chứng duy vật. Điển hình cho khuynh hướng đó là chủ nghĩa duy ý chí và chủ nghĩa Cantơ mới. Đến thế kỷ XX nó không chỉ dùng quan điểm siêu hình, cô lập và tĩnh tại để bác bỏ phép biện chứng nữa, mà còn tuyên truyền tiến hóa luận tầm thường.

Các trường phái triết học phương Tây hiện đại chỉ thừa nhận biến đổi về lượng chứ không thừa nhận biến đổi về chất, hoặc tuyệt đối hóa quá trình vận động, phủ nhận sự đứng im tương đối, làm cho phép biện chứng mang màu sắc thần bí.

Thứ ba, phá vỡ sự thống nhất giữa bản thể luận, nhận thức luận và logic học

Bước vào thế kỷ XX, Chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước đã bộc lộ tính bảo thủ triết học của nó cũng phơi bày sự bất lực trong việc xây đựng những học thuyết hoàn chỉnh, nhất quán, những tổng hợp triết học lớn. Đã không còn mang một hình thức lí luận thống nhất và hoàn chỉnh. Nó phá vỡ sự thống nhất của bản thể luận, nhận thức luận và logic học, đề cao khoa học để hạ thấp triết học, quy triết học là sự tổng hợp của các khoa học cụ thể hoặc sự phân tích về phương pháp  mà thực chất là nhằm thủ tiêu triết học.

Nhà lịch sử triết học ngưòi Pháp Emilê Bréhier đã nhận xét về nền triết học tư sản hiện đại: "Thời đại chúng ta không được chứng kiến sự phồn vinh của các hệ thống". Chủ nghĩa thực chứng là trào lưu nổi bật trong thế giới tư bản hiện đại, nhưng người ta cũng thấy nó không tự tổ chức thành hệ thống theo phương thức của chủ nghĩa duy lý siêu hình cổ điển. Quả thực, sau Heghel, sự kiêng dè đối với hệ thống đã làm cho mọi triết học duy tâm tư sản đều mang bộ mặt "chống hệ thống".

Không còn những hệ thống triết học lớn mà chỉ còn sự phân mảnh của những chủ đề. Chủ nghĩa thực chứng quy toàn bộ tri thức triết học thành những bản tóm lược quy nạp do các khoa học chuyên môn đưa lại. Có bao nhiêu khoa học thì có bấy nhiêu trí thức. Sự xé nhỏ của chủ đề đã làm tan biến "hệ thống triết học”.

Không còn mục tiêu tổng quát là cải tạo xã hội để dựng lên một tổng hợp triết học, triết học tư sản giờ đây chỉ quan tâm tới mục tiêu cục bộ.

Chủ nghĩa thực chứng chỉ còn tự nhận mình là "triết học của khoa học", là "tri thức học" của khoa học. Xuống thang hơn nữa, chủ nghĩa hiện sinh, nhân học triết học chỉ còn quan tâm tới thân phận, tới bản chất người trừu tượng, nói rõ hơn, tới cái bản chất sinh học ấy là bản năng bạo hành (triết học đời sống), ấy là cái "tôi chủ thể" (hiện tượng học), ấy là cái năng lực "thông hiểu" của con người (chú giải học).

Thứ tư, đặt ra được nhưng không giải quyết đúng một số vấn đề cấp bách hiện nay của nhân loại

Về tổng thể, triết học tư sản hiện đại xuất hiện với tư cách là hình thái ý thức của giai cấp tư sản, nhưng khuynh hướng chính trị của các trường phái lại có sự khác biệt nhất định

Trong đó, có trường phái phản mácxít cực kỳ phản động, biện hộ một cách lộ liễu cho chủ nghĩa tư bản; cũng có trường phái bộc lộ trạng thái hoang mang của tầng lớp trung gian đối với sự khủng hoảng của xã hội tư sản, v.v.. Có một số trường phái triết học đã tiến hành nghiên cứu một số vấn đề cấp bách của thời đại và đã đạt được kết quả nhất định, nhưng do hạn chế bởi lập trường chính trị giai cấp và của phương pháp nhận thức, nên những nghiên cứu đó chưa đưa lại sự giải thích và câu trả lời đúng đắn cho các vấn đề đặt ra

Hai trào lưu lớn đã đề cập hai loại vấn đề tương đối quan trọng và cố gắng đưa ra câu trả lời. Đó là:

Một là, vấn đề mối quan hệ giữa khoa học kỹ thuật và con người. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật có ý nghĩa gì đối với cuộc sống của con người? Chủ nghĩa tư bản rốt cuộc có tiền đồ hay không? Tiền đồ của nhân loại rốt cuộc sẽ ra sao? Trào lưu nhân bản chủ nghĩa hiện đại khi luận giải vấn đề này, có lúc đã phát hiện đúng một số nhược điểm của chủ nghĩa kỹ trị và triết học duy lý, đã vạch ra những mâu thuẫn, khủng hoảng, nhất là hiện tượng tha hóa của xã hội phương Tây hiện đại. Nhưng họ lại giải thích mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản là do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và đời sống vật chất được nâng cao mang lại. Điều đó rõ ràng là sai lầm.

Hai là, vấn đề làm thế nào từ tầm cao của triết học mà vạch ra được bản tính của khoa học và các quy luật phát triển của nó. Triết học về khoa học trong triết học phương Tây hiện đại đã có công đặt ra và xử lý một loạt các vấn đề có quan hệ biện chứng với nhau, như sự phát kiến khoa học và sự chứng minh khoa học; lý luận khoa học và hoạt động khoa học; những nhân tố bên trong của khoa học và những điều kiện bên ngoài của khoa học; sự phát triển bình thường của khoa học và bước thay đổi cách mạng của nó; phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử, v.v.. Nhưng do các nhà triết học về khoa học ở phương Tây bị hạn chế ở lập trường duy tâm và thiếu sự tự giác vận dụng phép biện chứng, cho nên họ đã không thành công trong việc tổng kết và khái quát một cách đúng đắn những quy luật phát triển của khoa học hiện đại.

Tóm lại, các trào lưu triết học phương Tây hiện đại ngoài mácxít đã phản ánh được một số vấn đề mới của thời đại hiện nay, đã có những tìm tòi, hơn nữa còn đạt được một số thành quả nhận thức nhất định. Nhưng do sự hạn chế về lập trường chính trị giai cấp, do thế giới quan duy tâm và phương pháp siêu hình, họ vẫn không đưa ra được câu trả lời khoa học cho các vấn đề đó, càng không thể chỉ ra phương hướng tiến lên cho nhân loại. Sự thực đó lại một lần nữa chứng minh vai trò của triết học Mac trong thời đại hiện nay.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Top Ad

Your Ad Spot