2.1.
Sự
đồng nhất của lý luận nhận thức và phép biện chứng và logic biện chứng
2.1.1. Sự đồng nhất giữa logic biện chứng và
lý luận nhận thức
Tìm
hiểu nội dung của logic biện chứng, Lênin đã đọc Lời tựa cho lần xuất bản thứ
nhất cuốn Khoa học Lôgích của Hêghen và ghi nhận tư tưởng của Hêghen: “Vận động
của ý thức “giống như sự phát triển của toàn bộ đời sống của tự nhiên và tinh
thần” là dựa trên “bản tính của những bản chất thuần túy hợp thành nội dung của
lôgích””5 . Từ tư tưởng trên đây của Hêghen, Lênin đã rút ra quan niệm về sự đồng
nhất giữa logic biện chứng và lý luận nhận thức:
“Lôgích và lý luận nhận thức phải được suy diễn từ “sự phát triển của toàn bộ đời
sống của tự nhiên và tinh thần””6 .
Lênin
cho rằng cả logic biện chứng và cả lý luận nhận thức đều phải xuất phát từ “nội
dung cụ thể của thế giới”, tức là những quy luật phát triển của thế giới. Lênin
cho rằng, logic biện chứng “nhất trí” với lý luận nhận thức, những điều mà
logic biện chứng phản ánh là phù hợp với chân lý, phù hợp với những tổng kết của
lịch sử tư tưởng của loài người. Lênin viết: “Lôgích là
học thuyết về nhận thức. Là lý luận nhận thức. Nhận thức là sự phản ánh tự nhiên
bởi con người. Nhưng đó không phải là sự phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn chỉnh,
mà là một quá trình cả một chuỗi sự trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành ra
các khái niệm, các quy luật, các phạm trù,…” 7 . Tóm lại, theo Lênin, cả
logic biện chứng và lý luận nhận thức đều có chung một điểm xuất phát, một đối
tượng nghiên cứu chung, đó chính là những quy luật khách quan của thế giới vật
chất. Logic biện chứng là sự phản ánh của các quy luật khách quan ấy vào trong
tư duy của con người thông qua các quy luật và hình thức của tư duy, còn lý luận
nhận thức hình thành các quy luật và hình thức của tư duy để thể hiện sự phản
ánh các quy luật khách quan của thế giới vật chất. Cả hai ngành khoa học này tồn
tại trong mối liên hệ chặt chẽ, có những nét tương đồng với nhau.
2.2. Sự đồng nhất giữa lý
luận nhận thức và phép biện chứng
Lênin
còn nhìn từ góc độ của phép biện chứng và lý luận nhận thức để giải thích sự thống
nhất của “ba vế của khách quan”. Thế giới vật chất luôn luôn vận động, biến đổi
và phát triển không ngừng , cho nên sự phản ánh thế giới vật chất ấy cũng phải
luôn vận động, biến đổi theo cho phù hợp, như thế thì sự phản ánh mới đúng đắn.
Khi
nghiên cứu phần Ý niệm trong Khoa học Lôgích của Hêghen, Lênin viết: “Nhận thức là sự tiến gần mãi mãi và vô tận của tư duy đến
khách thể. Phản ánh của giới tự nhiên trong tư tưởng con người phải được hiểu
không phải một cách “chết cứng”, “trừu tượng”, không vận động, không mâu thuẫn,
mà là trong quá trình vĩnh viễn của vận động, của sự nãy sinh mẫu thuẫn và giải
quyết mâu thuẫn đó”8 .
Quá trình nhận thức của con người cũng chính là
một quá trình biện chứng, là quá trình hình thành và tác động, chuyển hóa của
những khái niệm trong tư duy của con người. Quá trình biện chứng của các khái
niệm cũng chính là quá trình biện chứng của các sự vật, hiện tượng trong hiện
thực, nên theo Lênin, nhận thức là một quá trình biện chứng và nhận thức luận
cũng chính là phép biện chứng. Lênin viết: “Toàn bộ của
tất cả các mặt của hiện tượng, của hiện thực và các quan hệ của chúng – đó là
những cái hợp thành chân lý. Những quan hệ (= chuyển hóa = mâu thuẫn) của những
khái niệm = nội dung của lôgích, hơn nữa những khái niệm ấy ( và những quan hệ,
chuyển hóa và mâu thuẫn của chúng) đều được trình bày như là những phản ánh của
thế giới khách quan. Biện chứng của sự vật sản sinh ra biện chứng của ý niệm, chứ
không phải ngược lại”.9
Tóm
lại, theo Lênin, lý luận nhận thức chính là sự phản ánh của biện chứng của các
sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, cả hai ngành khoa học này đồng nhất
với nhau ở chổ đối tượng nghiên cứu cơ bản chính là mối liên hệ, sự vận động và
phát triển giữa các sự vật, hiện tượng – tức là biện chứng của thế giới.
2.3. Sự đồng nhất giữa
phép biện chứng và logic biện chứng
Theo
Lênin, phép biện chứng và logic biện chứng đồng nhất với nhau ở đối tượng
nghiên cứu. Cả phép biện chứng và logic biện chứng đều nghiên cứu biện chứng –
tức là mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa, vận động và phát triển của các sự vật,
hiện tượng nhưng ở phạm vi khác nhau. “Tính chất phổ biến
của các quy luật của phép biện chứng, tức là sự hoạt động bao trùm tất cả mọi
lĩnh vực của thế giới khách quan mà những quy luật đó trở thành quy luật của tư
duy logic và của nhận thức”.10
Có thể nói rằng các quy luật của phép biện chứng
cũng chính là những quy luật của logic biện chứng, những quy luật và hình thức
của tư duy cũng tồn tại trong mối liên hệ, chuyển hóa, luôn luôn vận động và
phát triển. “Lôgic biện chứng không phải là một cái gì
khác với phép biện chứng mà là một trong những mặt, những khía cạnh quan trọng
của phép biện chứng. Mặt khác nó nghiên cứu xem những hình thức và quy luật của
tư duy thế nào để phản ánh chân thực hiện thực khách quan” 11 .
2.2.
Sự
khác biệt giữa logic biện chứng, lý luận nhận thức và phép biện chứng
2.2.1. Sự khác biệt giữa logic biện chứng và
lý luận nhận thức
Cả
logic biện chứng và lý luận nhận thức đều nghiên cứu vấn đề biện chứng, là biện
chứng chủ quan của con người. Nhưng biện chứng ấy được thể hiện bằng những
phương pháp và phạm vi tác động khách nhau đối với từng ngành khoa học. Theo
Lênin, nội dung chủ yếu của logic biện chứng là quan hệ và chuyển hóa của các
khái niệm, là quan hệ mâu thuẫn của các khái niệm. Cho nên có thể nói trong
logic biện chứng, biện chứng của thế giới được cụ thể thành biện chứng của tư
duy, của các khái niệm. Lý luận nhận thức, theo Lênin, “Nhận
thức là sự phản ánh giới tự nhiên bởi con người”12.
Là
sự phản ánh mang tính chủ quan biện chứng khách quan vào trong bộ não người,
hình thành tri thức của con người. Trong quá trình phản
ánh ấy, lý luận nhận thức sử dụng các khái niệm, quy luật để nhận thức được thế
giới. Là khoa học nghiên cứu về nhận thức của con người và loài người, lý luận
nhận thức có nhiệm vụ chủ yếu là vạch ra những mối liên hệ có tính quy luật giữa
các yếu tố, các giai đoạn, các cấp độ của quá trình nhận thức. Vấn đề cơ bản của
lý luận nhận thức, như vậy, là vấn đề về tính thực tiễn của tri thức. So với lý
luận nhận thức, logic học có phạm vi bao quát hẹp hơn, nó chỉ đề cập đến tư duy
- một giai đoạn (giai đoạn cao) của nhận thức. Lý luận nhận thức nghiên cứu tư
duy chủ yếu với tư cách một mắt xích trong tiến trình liên tục của nhận thức (từ
trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn).
Nhưng với lôgíc học thì vấn đề lại khác, lôgíc học là khoa học nghiên cứu về tư
duy lôgíc, nhiệm vụ chủ yếu của nó là vạch ra cái logic của tư duy và vấn đề cơ
bản của nó là vấn đề về tính chân thật hay giả dối của tư tưởng. Không bàn đến
tính chân thực hay giả dối của tư tưởng thì không còn là lôgíc học nữa.
2.2.2. Sự khác biệt giữa lý luận nhận thức
và phép biện chứng
Lý luận nhận thức là sự phản ánh biện chứng
khách quan của thế giới bởi con người. Điều khác nhau căn bản giữa lý luận nhận
thức và phép biện chứng cũng chính là sự khác biệt giữa biện chhứng của tự
nhiên và biện chứng của tư duy. Biện chứng của tự nhiên là cái vốn có của sự vật
hiện tượng, nó mang tính khách quan. Trong biện chứng tự nhiên, các sự vật, hiện
tượng mang tính bị động so với tính quy định vốn. Còn biện chứng của tư duy cũng
bàn đến biện chứng của tự nhiên, là sự nhận thức của con người nên nó có sự tác
động bởi ý thức đến quá trình nhìn nhận biện chứng của thế giới khách quan, con
người thông qua khái niệm, quy luật, phạm trù để phản ánh quy luật khách quan của
thế giới. Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa lý luận nhận thức và phép biện chứng.
Lênin viết: “Ở đây, thật sự về khách quan có ba vế: 1)
giới tự nhiên, 2) nhận thức của con người = bộ óc của người (với tư cách là sản
phẩm cao nhất của giới của giới tự nhiên đó), 3) hình thức của sự phản ánh giới
tự nhiên vào trong nhận thức của con người; hình thức này chính là những khái
niệm, những quy luật, những phạm trù,..”13.
2.2.3. Sự khác biệt giữa
phép biện chứng và logic biện chứng
Theo
Lênin, phép biện chứng là ngành khoa học nghiên cứu các mối liên hệ, sự vận động
và phát triển của tất các các sự vật, hiện trượng trong mọi lĩnh vực như tự
nhiên, xã hội và tư duy của con người. Còn Logic biện chứng là ngành khoa học
cũng nghiên cứu đến mối liên hệ, vận động và phát triển nhưng phạm vi nghiên cứu
của ngành khoa học này chỉ là những quy luật và hình của tư duy. Đây là điểm
khác nhau cơ bản thứ nhất giữa phép biện chứng và logic biện chứng. Điểm khác
nhau thứ hai giữa phép biện chứng và logic biện chứng, cũng giống như lý luận
nhận thức, logic biện chứng cũng mang tính chủ quan của sự phản ánh biện chứng
của thế giới vào trong tư duy của con người, nó cũng chịu sự tác động của ý thức
của con người. Các yếu tố vận động theo biện chứng của tự nhiên cũng mang tính
thụ động, còn các yếu tố trong logic biện chứng lại mang tính tự giác – “Sự tự
giác hóa” nhờ có sự tác động của ý thức con người.
KẾT LUẬN
Thông
qua những quan điểm của V.I. Lênin, chúng ta đã phần nào nhận thức rõ được đối
tượng nghiên cứu và phạm vi tác động của ba ngành khoa học chủ yếu triết học
Mác – Lênin, nhận thức được giữa chúng có những điểm tương đồng cũng như một số
khác biệt nhất định. Chính từ những sự đồng nhất và khác biệt chúng ta có được
cơ sở để khẳng định rằng ba ngành khoa học này không phải tồn tại tách biệt,
không có mối liên hệ với nhau mà chúng gắn bó mật thiết với nhau, có những sự
tác động, chuyển hóa lẫn nhau, và cũng chính điều này chúng ta có thể khẳng định
tính thống nhất của ba ngành khoa học trên. Trên cơ sở phân tích sự đồng nhất
và khác biệt, chúng ta có được cơ sở lý luận chặt chẽ và khoa học để chống lại
các quan điểm duy tâm, siêu hình đã “bóp méo sự thật”, xuyên tạc chủ nghĩa Mác
– Lênin khi bàn về sự thống nhất giữa ba ngành khoa học trên, khẳng định thế giới
quan duy vật và phương pháp luận biện chứng của triết học Mác – Lênin là đúng đắn
và khoa học. Thông qua việc nghiên cứu sự đồng nhất và khác biệt giữa ba ngành
khoa học trên, chúng ta có được nhận thức đúng đắn về đối tượng cũng như phương
pháp của ba ngành khoa học này để có thể lựa chọn phương pháp nhận thức, cũng
như tác động và cải tạo thế giới hiệu quả./
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Doãn Chính – PGS.TS. Đinh Ngọc
Thạch (Đồng chủ biên) (2008), Vấn đề triết học trong tác phẩm của C.MÁC –
PH.ĂNGGHEN, V.I. LÊNIN, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. V.I. LÊNIN (2005): Toàn tập (tập 29),
NXB chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. PGS.TS. Võ Văn Thắng (2014), Giáo trình
Logic biện chứng, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
4. PGS. Vũ Ngọc Pha (1996), Tìm hiểu về
Logic, NXB Chính trị quốc gia.
5.Http://philosophy.vass.gov.vn/nghien-cuu-theo-chuyen-de/Logichoc/Ve-sudong-nhat-va-khac-biet-giua-phep-bien-chung-ly-luan-nhan-thuc-va-logic-hoc58.html
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét