Post Top Ad

Your Ad Spot

Thứ Hai, 19 tháng 4, 2021

Chuyên đề hình thái kinh tế - xã hội


 

I.    Khái quát về lý luận hình thái kinh tế - xã hội:

1.     Phạm trù hình thái kinh tế xã hội

Xã hội không là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên giữa các yếu tố với nhau theo ý muốn chủ quan của con người, mà là một hệ thống trong đó các yếu tố thống nhất với nhau, tác động qua lại lẫn nhau và không ngừng tác động với tự nhiên, làm biến đổi tự nhiên.

Trên cơ sở phân tích các mặt trong đời sống xã hội và các mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng. Các Mác đã đi đến khái quát xã hội bằng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội và coi sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên.

Trong hệ thống các quan hệ xã hội hết sức phức tạp, C.Mác đã vạch ra quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản của xã hội, là cơ sở của các quan hệ xã hệ khác, nó quy định tính độc đáo riêng của từng xã hội trong lịch sử. 

Như vậy, có thể định nghĩa Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử (hay còn gọi là chủ nghĩa duy vật biện chứng về xã hội) dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó, phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất đó. Nó chính là các xã hội cụ thể được tạo thành từ sự thống nhất biện chứng giữa các mặt trong đời sống xã hội và tồn tại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.

Như vậy hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống xã hội hoàn chỉnh có cấu trúc phức tạp, trong đó các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất (LLSX) , quan hệ sản xuất (QHSX) và kiến trúc thượng tầng (KTTT). Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.

Trong đó LLSX là cơ sở vật chất - kỹ thuật của mỗi hình thái kinh tế - xã hội. Hình thái kinh tế - xã hội khác nhau có LLSX khác nhau.

Suy cho cùng, sự phát triển của LLSX quyết định sự hình thành, phát triển và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng của nó. Bên cạnh đó, QHSX là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội. 

2.   Sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên:

Các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng các mặt cấu thành của hình thái kinh tế - xã hội không ngừng tác động qua lại lẫn nhau, làm cho các hình thái kinh tế - xã hội không ngừng vận động và phát triển.

Theo Mác, xã hội vận động và phát triển theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan của con người. Theo Lênin, sự vận động của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên chịu sự chi phối của những quy luật không những không phụ thuộc vào ý chí, ý thức và ý định của con người mà trái lại, còn quyết định ý chí, ý thức và ý định của con người.

Sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội vừa bị chi phối bởi các quy luật chung, phổ biến, vừa bị chi phối bởi các quy luật đặc thù:

-   Quy luật phổ biến của sự vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là các quy luật chi phối sự vận động, phát triển của mọi hình thái kinh tế - xã hội. Đó là quy luật của quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng và các quy luật phổ biến khác.

-  Bên cạnh các quy luật phổ biến, mỗi hình thái kinh tế - xã hội còn bị chi phối bởi các quy luật đặc thù, các quy luật riêng có của từng hình thái kinh tế - xã hội dựa trên những điều kiện về tự nhiên, về chính trị, truyền thống văn hóa, về điều kiện quốc tế,…làm cho quá trình vận động, phát triển của mỗi hình thái kinh tế - xã hội có đặc điểm riêng. 

Chính các mặt cấu thành hình thái kinh tế xã hội tác động, quy định chuyển hóa lẫn nhau tuân theo những quy luật vận động, phát triển trên đã làm cho hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển từ thấp đến cao, từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan.

Quá trình phát triển từ hình thái kinh tế - xã hội này lên hình thái kinh tế - xã hội khác với trình độ cao hơn không nhất thiết phải là một quá trình trải qua đầy đủ các hình thái mà cao hàm cả sự bỏ qua một hoặc một vài hình thái tùy vào điều kiện thực tiễn của mỗi xã hội cụ thể, làm cho sự vận động phát triển của hình thái kinh tế - xã hội hết sưc phong phú, đa dạng.

VD: Việt Nam chúng ta đã có đã bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa để tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội; hay nước Mỹ cũng không trải qua chế độ Phong kiến mà tiến thẳng từ Xã hội chiếm hữu nô lệ lên chế độ Tư bản chủ nghĩa.

II.     Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát triển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung. Vì vậy, không thể xuất phát từ ý thức, tư tưởng hoặc từ ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện tượng trong đời sống xã hội, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của nền sản xuất xã hội, đặc biệt là từ trình độ phát triển của phương thức sản xuất của xã hội với cốt lõi của nó là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất hiện thực.

Thứ hai, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, xã hội không phải là sự kết hợp một cách ngẫu nhiên, máy móc giữa các cá nhân, mà là một cơ thể sống động. Các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau. Vì vậy, để lý giải chính xác đời sống xã hội cần phải sử dụng phương pháp luận trừu tượng hóa khoa học - đó là cần phải xuất phát từ quan hệ sản xuất hiện thực của xã hội để tiến hành phân tích các phương diện khác nhau (chính trị, pháp luật, văn hóa, khoa học,...) của đời sống xã hội và mối quan hệ lẫn nhau giữa chúng.

Thứ ba, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, sự vận động, phát triển của xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên, tức là quá trình diễn ra theo các quy luật khách quan chứ không phải theo ý muốn chủ quan, do vậy muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội thì phải đi sâu nghiên cứu - các quy luật vận động, phát triển của xã hội. V.I.Lênin từng nhấn mạnh rằng: "Xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc và do đó, cho phép có thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định, và cần phải nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó"'.

Qua những tiên đoán của các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác – Lênin về sự thay thế xã hội Tư bản chủ nghĩa bằng một chế độ xã hội phát triển cao hơn – đó là xã hội Cộng sản chủ nghĩa, cùng với những lý luận khoa học về tác động, quy định lẫn nhau của các mặt cấu thành hình thái kinh tế - xã hội làm cho hình thái kinh tế - xã hội vận động, phát triển không ngừng đã tạo nên tính khoa học, đúng đắn của lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa Mác – Lênin.

Những lý luận ấy có giá trị về mặt phương pháp luận chung nhất của việc nghiên cứu về xã hội và lịch sử nhân loại, lịch sử các cộng đồng người, nhưng nó không thể thay thế cho những phương pháp đặc thù trong các quá trình nghiên cứu về từng lĩnh vực cụ thể của xã hội.

Hiện nay loài người đã có những bước phát triển hết sức to lớn về mọi mặt. Tuy nhiên học thuyết đó vẫn còn nguyên giá trị, nó vẫn là phương pháp thực sự khoa học để nhận thức một cách đúng đắn về đời sống xã hội.

III.      Sự vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội trong thời kì đổi mới của Đảng ta

1.   Điều kiện đất nước ta trước đổi mới:

Khi giành được được chính quyền ở miền Bắc, Bác Hồ và Đảng ta đã xác định con đường chính cho cách mạng Việt Nam đó là tiến hành cách mạng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội gắn liền với việc giữ vững độc lập dân tộc. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đầu tiên là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì Đảng ta đã chủ trương tiến hành khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả chiến tranh và tiến lên xây dựng Chủ nghĩa xã hội.

Nhưng cần nhìn nhận sự khó khăn của đất nước ta sau khi giành được độc lập: Nền kinh tế Việt Nam vốn dựa vào nông nghiệp ngay bản thân nền nông nghiệp cũng bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công nghiệp chưa hiện đại lại bị tàn phá bởi chiến tranh; Mối quan hệ hợp tác quốc tế với các nước trên thế giới bị hạn chế, đặc biệt là các nước “thân” Mỹ bởi chính sách cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam; Sau năm 75 thì cả hai miền Nam Bắc tuy nhập lại cùng một nước nhưng hệ thống kinh tế thì khác nhau và những rối loạn ban đầu sau chiến tranh về mặt xã hội cũng ảnh hưởng rất lớn đến tình hình kinh tế nước ta.

Sau khi thống nhất đất nước, do chưa nhận thức đầy đủ về thời kỳ quá độ và do tư tưởng chủ quan, nóng vội, muốn bỏ qua những bước đi cần thiết lên Chủ nghĩa xã hội nên Đảng ta đã có những sai lầm trong đường lối (Đại hội IV 1976 chưa xác định những mục tiêu của chặng đường đầu tiên), dẫn đến nước ta rơi vào thời kì khủng hoảng về kinh tế, làm mất lòng tin của nhân dân về con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

-  Kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất không có phát triển. Nếu tính chung từ năm 1976 đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hàng năm chỉ tăng ở mức 4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8 bình quân hàng năm chỉ tăng 3,7% trong khi dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%

-  Không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế vì làm không đủ ăn, thu nhập quốc dân sản xuất chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng

-                          Siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976 - 1985 chỉ số giá bán lẻ hàng hóa năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và giao động ở mức 19 - 92%. Năm 1986 lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7%

-     Đời sống nhân dân hết sức khó khăn thiếu thốn.

Từ đó đặt ra một yêu cầu cấp thiết là Đảng ta cần phải đổi mới trong đường lối xây dựng phát triển đất nước, đặt biệt là đổi mới nhận thức về Chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

2.     Sự vận dụng của Đảng ta:

Đại hội VI (1986) với chủ trương: “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” đã chỉ ra sai lầm của Đảng ta trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội trước khi đổi mới đó là chúng ta chỉ căn cứ vào mô hình CNXH kiểu Xôviết mang tính dập khuôn, máy móc, giáo điều và áp đặt bằng mệnh lệnh, hành chính mà không nhìn nhận đúng đắn điều kiện thực tiễn của Việt Nam, chưa xác định được đâu là mô hình, diện mạo, các tiêu chí cần đạt tới của xã hội XHCN ở Việt Nam.

-  Chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính tới điều kiện và khả năng thực tế, không kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, chưa sử dụng có hiệu quả những khả năng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài”

-  Nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh. Đối với kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, ít chú ý những đặc điểm tính chất của từng ngành, từng nghề để lựa chọn hình thức tổ chức thích hợp, có xu hướng muốn tổ chức ngay những hợp tác xã quy mô lớn, không chú ý đến khả năng trang bị kỹ thuật, trình độ quản lý và năng lực của cán bộ…”.

-  Sai lầm về quản lý nhà nước “thể hiện ở nhiều khuyết điểm trong cải tạo XHCN, quản lý kinh tế, xã hội, đấu tranh tư tưởng, văn hóa và trong việc chống lại những âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ thù… chưa thiết lập và giữ vững trật tự XHCN trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế và xã hội, đã để cho pháp luật và kỷ cương của nhà nước bị vi phạm ngày càng phổ biến”.

Sau khi nhìn nhận những sai lầm đã mắc phải, Đảng ta đã có những chủ trương để phát triển đất nước, trong đó lý luận hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở cho đường lối chiến lược cách mạng cho quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội nói chung và trong công cuộc đổi mới hiện nay:

Một là, lựa chọn con đường tiến lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ TBCN. Sự lựa chọn này đã được Đảng ta xác định ngay trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng đầu năm 1930 do Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta là đồng chí Trần Phú soạn thảo và ghi rõ : "Cách mạng Việt Nam sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ thì tiến thẳng lên làm cách mạng XHCN mà không kinh qua chế độ TBCN". 

+ Chúng ta bỏ qua CNTB chỉ là bỏ qua CNTB với ý nghĩa là một phương thức sản xuất đẻ ra quan hệ bóc lột và những bất công, chỉ bỏ qua các quan hệ sản xuất TBCN với ý nghĩa nó là một quan hệ thống trị nền kinh tế, chỉ bỏ qua tính chát hiếu chiến và thủ đoạn bóc lột lao động làm thuê của giai cấp tư sản. Nhưng chúng ta không bỏ qua nên kinh tế hàng hoá và những quan hệ kinh tế vốn có của nó; không bỏ qua những thành quả về mặt khoa học kỹ thuật; trình độ tổ chức quản lý của nền sản xuất lớn tiên tiến của CNTB; không bỏ qua những quy luật kinh tế khách quan, những cơ chế kinh tế tạo ra sức mạnh động lực thúc đẩy nền kinh tế. 

+ Trong quá trình đổi mới hiện nay, Đảng ta khẳng định chúng ta vẫn giữ vững mục tiêu XHCN và đi lên CNXH là phù hợp với xu thế của thời đại, điều kiện cụ thể của cách mạng nước ta và thuận theo nguyện vọng của nhân dân.

Hai là, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 
Trong quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Việc xây dựng nền kinh tế hàn hóa nhiều thành phần phù hợp với sự phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển của LLSX , thúc đẩy quá trình CNH, HĐH đất nước.

+ Theo quan điểm của Đảng ta, kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phân kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc.

+ Việc xây dựng và phát triển nên kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta; với yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ kết hợp với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 

+ Đảng ta khẳng định "mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liên với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả 3 mặt sở hữu, quản lý và phân phối. 

+ Kinh tế thị trường định hướng XHCN không thể tách rời vai trò quản lý của Nhà nước XHCN. Nhà nước ta là Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế  thị trường.

+ Áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.

Ba là, Công nghiệp hoá, hiện đại hoá với sự nghiệp xây dựng CNXH.

-       Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Cái thiếu thốn nhất của chúng ta là chưa có nền đại công nghiệp. Chính vì vậy chúng ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

-       Trong thời đại ngày nay, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở nước ta.

-       Đảng ta đã chỉ rõ con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự; vừa có bước nhảy vọt. 

+ Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới nền khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.

+ Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 

+ Từ Đại hội VIII của Đảng năm 1996, đất nước đã chuyển sang giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Đây cũng là yếu tố quyết định chống lại "nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới".

Bốn là, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống xã hội. 

-  Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

-  Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

-  Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt các vấn đề xã hội; thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 
IV. Kết luận

Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là một học thuyết khoa học. Trong điều kiện hiện nay học thuyết này vẫn còn giữ nguyên giá trị. Học thuyết này đem lại một phương pháp thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng trong đời sống xã hội để từ đó vạch ra phương hướng giải pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn.

Thông qua việc nghiên cứu sâu sắc về bản chất của học thuyết này, Đảng ta đã xác định đúng đắn con đường đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN. Đây là sự lựa chọn rất đúng đắn của Đảng ta, đồng thời Đảng ta thừa nhận trong thời kỳ quá độ tiến lên CNXH còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữa vai trò chủ đạo hướng dẫn các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng XHCN.

Lý luận hình thái kinh tế xã hội cũng là phương pháp luận khoa học để ta phân tích công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, luận chứng được tất yếu của định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế xã hội và chỉ ra được: Đổi mới theo định hướng của xã hội vừa phù hợp với xu hướng phát triển thời đại vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam.

Như vậy có thể khẳng định rằng: Lý luận hình thái kinh tế xã hội vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và đúng thời đại của nó. Nó là phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích thời đại cũng như của công cuộc xây dựng đất nước hiện đại ở Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Post Top Ad

Your Ad Spot